Chúng tôi ai nấy đều thoáng ngỡ ngàng, anh Hùng đứng dậy đi ra sau rồi ngồi cạnh bên ông lão, anh nói:
– Kiên Lương không thiếu lan, người tìm không đủ lực, quẩy gánh hàng đựng đồ đi tìm miễu, có miễu đập miễu, có lan hái lan, chẳng hay lan đó bao nhiêu đũa?
Nghe đến đó ông lão cười khoái chí rồi ra hiệu cho bọn chúng tôi ra bàn phía sau quán ngồi để tránh tai mắt. Ông rửa vội đôi tay đầy nhớt xe, tôi để ý mới thấy ông bị mất một chân, phải đeo chân giả, bước đi khập khiễng. Ông giới thiệu mình tên Nghĩa, gọi Sáu Nghĩa là được, trước kia đi thả diều ở khu vực Tây Ninh. Trong một lần ở Bù Đăng, tay đập miễu do khinh địch nên bị vật chết, ông thì thoát được nhưng bị gặm mất cái chân. Đợt ấy không nhờ đồng đạo lên cứu kịp thì chắc ông đã bỏ mạng. Đó là chuyện của mười lăm năm trước, từ đó tới nay ông trở về quê Kiên Lương, làm nghề sửa xe sống qua ngày.
Suốt quãng thời gian đó, ông không thấy có dân lục lâm ghé qua vùng này, mặc dù lan quý còn rất nhiều. Nói đến đây, Sáu Nghĩa mới hỏi lai lịch của bọn tôi, Sinh giới thiệu qua một loạt, đến Tú Linh thì ông Nghĩa hết sức ngạc nhiên khi biết cô là đồ đệ của Lục Tỷ. Lần bị gặm chân, suýt chút nữa bị âm khí nhập thân, may mà chở lên cho Lục Tỷ kịp.
Tôi nhìn Sáu Nghĩa, một dân lục lâm bình thường. Những người trong giới tới giờ tôi biết đều có bản lĩnh rất cao cường, làm những việc kinh thiên động địa. Lúc ấy tôi nhận ra rằng, ngoài kia vẫn còn rất nhiều người như vậy, chỉ vì mưu sinh sẵn sàng liều mạng, số người gia nhập lục lâm chắc cũng ngang ngửa với người vừa chết. Sáu Nghĩa hỏi anh Hùng sao lại đến đây, săn thứ gì. Anh Hùng nhìn xung quanh, cũng không cần giấu giếm với bậc tiền bối, bèn kể lại chuyện Thông hóa thành Xà Niêng và chuyện sắp đi vào Mo So tìm Ca Lâu Thành.
Sáu Nghĩa không giấu nổi vẻ bất ngờ, ông nói:
– Cái gì, chú em đùa sao? Đâu thiếu chỗ chết, vô đó làm gì cho chết mất xác?
Anh Hùng hỏi:
– Chú ở đây, có thể nói cho tụi con biết chút về hang Mo So không?
Ông Sáu trầm ngâm giây lát rồi bảo:
– Tao ở đây hồi nhỏ, lớn lên đi thả diều ở xa, về lại cũng mười lăm năm, chuyện về kỳ động trong đó chắc biết chưa được trang giấy. Tuy nhiên, có nghe nói chừng hai mươi năm trước, có hai cao nhân đã vào được đó, sao mày không tìm họ luôn?
Anh Hùng nói:
– Người đó là Lỗ Ban Tiểu Tử – Ba Lành, tụi con đến tìm thì ổng chết rồi.
Sáu Nghĩa ngạc nhiên, có lẽ là do chúng tôi có mối quan hệ với toàn dân thứ dữ. Tôi tự hỏi nếu anh Hùng nói là anh còn quen Chín Danh và từng được Bảy Săm cứu mạng không biết Sáu Nghĩa còn ngạc nhiên thế nào nữa. Ông Sáu nói:
– Vào đó thì tao chưa vào, nhưng tao có nghe kể lại cách tìm đường để vô trong. Trước kia có thử mấy lần nhưng không được, giờ cụt chân thế này càng không được!
Chúng tôi tò mò hỏi về cách đó, ông Sáu nói:
– Nếu tụi mày tinh thông Tiên Thiên Bát Quái thì được. Mo So là Bát Quái Động đó!
Nghe đến đây bỗng anh Hùng và Tú Linh có phần hơi e dè. Sinh mới hỏi Bát Quái Động là sao. Sáu Nghĩa nhìn trước sau rồi bảo:
– Hông ấy giờ vầy đi, tụi mày qua nhà tao nằm nghỉ một chút, dù gì cũng đang kẹt. Công an với cứu hộ đang quây kín mẹ nó rồi, tụi mày có vô được đâu. Qua làm lai rai với tao, tối tao dẫn đến cửa hang.
Nghe đến đó, anh Hùng cười rồi nói:
– Được chú Sáu giúp đến vậy, tụi con biết ơn lắm.
Nói đoạn, anh quay sang bảo cả bọn đứng lên đi theo chú Sáu về nghỉ, trước khi đi anh còn kêu Tú Linh đưa ba lô anh đeo cho đỡ mệt.
Chúng tôi khởi hành về nhà chú Sáu, từ chợ Kiên Lương đi về hướng Chùa Hang, chưa đến ngã ba rẽ vào hang Mo So thì có một cây cầu ván nhỏ bắc sang con kênh rộng chừng sáu, bảy thước. Đi dọc theo con đường đầy lau sậy và những hàng dừa cao, cuối cùng chúng tôi vào một con đường mòn, đi vừa đủ một người.
Tính ra đi từ chợ Kiên Lương đến đây mất khoảng bốn mươi phút. Con đường mòn khá ngoằn ngoèo. Tôi nghĩ trong đầu rằng đúng là lục lâm có khác, nơi ở cũng phải thật khác người. Từ lúc vừa bước vào con đường nhỏ này, tôi để ý có một đứa nhóc chừng sáu, bảy tuổi, mặc quần vải nâu, cởi trần, trên mình lấm lem bùn đất cứ chạy theo sau lưng chúng tôi. Mỗi lần tôi quay ra sau dòm nó thì nó lại lui lại mấy bước rồi nép vào một tán cây gần đó, đầu cứ lắc qua lại nhẹ nhẹ.
Phía trước anh Hùng đi hàng đầu cùng chú Sáu, đang trao đổi đủ thứ chuyện lục lâm. Tú Linh thì vừa đi vừa ngắm cảnh ruộng đồng, thứ mà ở Sài Gòn cô không thấy. Phần Sinh thì nó cứ ba bốn bước lại kẹp nhẹ một hớp rượu.
Vào con đường mòn lúc ấy đã gần sáu giờ tối, nơi đây không có đèn đường, đi mười phút thì đến nhà của chú Sáu. Đó là một mái nhà tranh đẹp như vẽ, trước mặt là hồ cá, hai bên trái phải là vườn cây và đồng ruộng, sau lưng là một quả núi dựng đứng (nếu đi từ đường quốc lộ sẽ thấy nơi này đang được khai thác đá làm xi măng). Lúc này nhà chú Sáu đã lên đèn, ánh đèn dầu lúc sáng lúc tỏ, nơi này vẫn chưa có điện. Từ trong nhà, một bà lão rất già bước ra, có vẻ như mắt đã mờ, bảo:
– Thằng Sáu hả? Bây về trễ vậy? Má nấu cơm rồi đó, mày vô ăn đi.
Chú Sáu quay ra bảo:
– Tới nhà tao rồi, đây là má tao đó.
Ông quay sang nói nhỏ với chúng tôi đầy chua xót:
– Làm lục lâm, bảo vật có khi cầm cả vài tỷ trong tay mà ngay cả mẹ ruột tao cũng không lo cho được cái nhà đàng hoàng, chua xót lắm mấy đứa ơi!
Nghe xong lời chú Sáu nói, tôi chợt giật mình nghĩ về những thứ xa xôi, lỡ đâu mình về già cũng như ông Sáu? Sáu Nghĩa tiến đến thưa mẹ ông ấy hết sức lễ phép rồi giới thiệu về chúng tôi, bỗng tôi nhớ lại về thằng nhỏ, quay ra sau thì thấy hình như nó đã lẩn ra sau hàng chuối gần đó. Tôi thấy hơi lạ vì sau đó thấp thoáng rất nhiều mả đất. Thấy nó đi rồi nên tôi cũng không thắc mắc với chú Sáu làm gì.
Bà lão đã già, mắt đã kém, không nhìn rõ được chúng tôi, chỉ hướng mặt về phía Sáu Nghĩa rồi cười hề hề, hết sức bình dị. Không hiểu sao lúc đó, tôi thấy tình cảnh ông Sáu hết sức đáng thương. Đời người chỉ một kiếp, lục lâm giàu thì vô số nhưng chết hoặc tàn phế cả đời cũng nhiều không kém. Khi đó cuộc đời có tăm tối như chú Sáu chăng?
Căn nhà tranh lụp xụp bỗng rộn ràng hơn. Tú Linh ở nhà trước châm cứu cho bà lão đỡ đau lưng, Sinh thì lo mần con vịt, tôi nhóm lửa, anh Hùng vẫn đi theo chú Sáu hỏi mãi về những chuyện săn lan thả diều. Buổi nhậu nhanh chóng được dọn lên, chỉ có vài món đơn giản và ít rượu chuối. Sinh không giấu nỗi thất vọng khi hết Gò Đen, tuy nhiên nó vẫn uống lấy uống để rượu chuối trên bàn đến mức chú Sáu còn sợ. Rượu hôm nay có vẻ khá nặng, uống chưa được một xị tôi đã chóng mặt, mặc dù tửu lượng tôi không tệ. Tôi chỉ thấy hình như bọn tôi đều xỉn cả, Sinh thì gục trước, thậm chí đã ngáy khò khò, ọc một bãi ra. Lúc tôi gục xuống cũng thấy Tú Linh đang sắp tới bến. Rồi tôi vật ra đất, ngất đi.
Đầu nhức ong ong, lưng trần cảm thấy lạnh ngắt, lúc đó tai tôi nghe có tiếng nói lạnh ngắt: “Chạy đi!” Tôi mở mắt ra, mặc dù đầu còn rất choáng. Khi còn chưa định hình được xung quanh, tôi chỉ thấy lưng mình rất lạnh, như đang nằm trần trên nền đá vậy. Cố nhắm mắt, định lấy tay dụi thì tôi phát hiện ra nó đã bị trói. Hốt hoảng, tôi tỉnh táo ngay lập tức, cố vùng dậy nhưng cổ cũng đã bị trói, chính xác còn thêm cả hai chân. Những sợi dây thừng to tướng siết chặt, trông tôi như tử tù đang đợi ngũ mã phanh thây.
Định thần lại, tôi thấy mình đang cởi trần, nằm trên một cái bàn đá trong một căn hầm đất, rễ cây mọc tua tủa, nhìn những nhánh rễ cây đâm ra, chắc hẳn nó phải rất to – đồng nghĩa căn hầm này đang nằm sâu dưới đất. Không gian được chiếu sáng bởi ba cây đèn dầu cũ mèm đặt ở cái bàn trông bẩn thỉu ở góc. Kế bên đèn, anh Hùng, Tú Linh và Sinh đang gục xuống, bị trói chặt vào ghế.
Trong lúc tôi đang hết sức hoảng loạn, chưa biết chuyện gì đang xảy ra thì âm thanh mài dao vang lên phía đầu tôi. Tôi cố ngước lên quay về phía âm thanh rùng rợn kia. Trong ánh đèn leo lét, bà lão đang cặm cụi làm gì đó, có lẽ là mài dao. Cảm giác sợ hãi hiện diện ở từng lỗ chân lông, ngay lập tức tôi quay về phía ba người kia hét lên hết sức bình sinh, hy vọng họ tỉnh lại, biết đâu có cái Ấn nào giải quyết được tình cảnh này chăng!
Tôi vừa cất tiếng, bà lão liền ngưng mài dao, từ từ quay đầu sang rồi tiến về bàn đá tôi nằm. Về phần mình, tôi cứ ra sức hét, nhưng bên kia, ba người họ vẫn còn gục, có vẻ thuốc mê rất nặng. Bà lão đến sát bên, cây dao miết nhẹ trên da cổ tôi lạnh ngắt, tóc tai bù xù che khuất khuôn mặt, ánh đèn vàng vọt chỉ chiếu được cái miệng rộng và đỏ lòm, đôi mắt rực lên hai lằn chỉ máu.