Được khai sinh trong thời đại độc lập và phục hưng của văn minh Việt sau đêm trường Bắc thuộc, nên ngay khi vừa nên dáng hình, gốm hoa nâu đã đượm hơi thở và sức sống thời đại. Tình thời đại đó được thể hiện rõ nét trong tính bản địa của cỏ lá chim muông, trong tinh phần Phật giáo và tam giáo đồng nguyên, trong dư âm hào khí Đông A và lời hoan ca vọng từ những hoạt cảnh được trang trí trên gốm hoa nâu.
Buổi đầu Lý triều, đất nước phồn vinh, nhân sinh ổn định, Phật giáo phát triển, mà sự kiện Trần Nhân Tông nhường ngôi đi tu (1299) là sự nở hoa kết trái của Thiền tông Việt. Giữa buổi thời ấy, gốm hoa nâu cũng mang đậm dấu ấn tín ngưỡng, nổi trội hình tượng đóa sen thiên biến vạn hóa nên đủ mọi dáng hình. Cánh sen đơn, sen kép, sen dây nở rộ trên nhiều hiện vật. Sự tinh tế, tỉ mỉ, cầu kỳ, nhiều chi tiết trên cùng một hiện vật được chế tác phần nhiều nhỏ gọn, như ấm trà, kỷ phấn, bát, đĩa, tô, chén uống trà, chân đế, đài sen, liễn… đã tỏ bày tấm lòng mến yêu và thưởng thức cái đẹp của con người mang Thiện ý đương thời..
Mô típ sừng tê, dù là một sự hiện diện có hạn, cũng đã chỉ ra một biểu tượng điển hình của Đạo giáo. Như nhiều nhà sử học, trong đó có giáo sư Trần Quốc Vượng, đã mệnh danh thời đại tồn tại và phát triển của gốm hoa nâu Việt Nam, trải qua Lý Trần, lan sang đầu Lê, là thời đại quân chủ Phật giáo, hay thời đại Tam Giáo đồng tồn Phật – Đạo – Nho của Việt Nam.