Những năm 1940, lục lâm khi ấy đang thoái trào, thời kỳ suy vi đã đến. Tuy nhiên chỉ giảm về số lượng người mới gia nhập mà thôi, những ai còn bám trụ được trong giới đều là những nhân vật tiếng tăm, có năng lực, đạo hạnh cao thâm. Trong ấy, ở vùng Long An có một thanh niên tên Phạm Quý Chỉnh, hào hoa phong nhã, trong những cuộc ăn chơi luôn luôn thấy mặt.
Chỉnh ban đầu là một phu khuân vác. Lần nọ đi chung tàu với một ông lão, thấy Chỉnh gan dạ và võ công cao cường, ông bèn rủ y đi săn lan ở vùng miền Đông. Từ từ Chỉnh chính thức trở thành lục lâm. Nghề dạy nghề, cộng thêm Chỉnh học đâu nhớ đấy, bao nhiêu kinh văn pháp chú tập vài lần là thành. Lan thời ấy hãy còn rất nhiều, chỉ cần có gan một chút, cuộc sống không thể nào có hai chữ thiếu thốn. Chỉnh lúc đó không chỉ nổi tiếng về những cú săn lan lớn, y còn được biết đến là một tay chơi hào hoa, chốn phường hát lúc nào cũng nghe nhắc về cái tên Cậu Chỉnh.
Mỹ Tho khi ấy là nơi giao thoa giữa văn hóa xa hoa của Sài Gòn và độ ăn chơi của miền Tây với những cái tên như Hắc Bạch Công Tử. Ở nơi này nổi danh một cô ca kỹ tài sắc vẹn toàn, tên là Tuyết Hoa. Tuyết Hoa chỉ mới đôi mươi, vẻ đẹp khuynh thành. Rất nhiều danh gia công tử không màng xuất thân của nàng, sẵn sàng cưới nàng về làm vợ, nhưng Tuyết Hoa không mảy may động lòng, đều khước từ tất cả, trong đó có Chỉnh.
Chỉnh đang tuổi thanh niên sung sức, vào sinh ra tử nhiều lần, tiền kiếm rất nhiều, chuyện trai gái vốn dĩ chẳng hề để tâm. Vậy mà nay lại bị một cô ca kỹ từ chối, làm y không cam tâm đến độ mất ăn mất ngủ. Bẵng đi một thời gian, Chỉnh lo săn lan ở vùng An Giang. Một hôm quay lại tìm Tuyết Hoa thì nghe tin cô vừa mới tự sát chết ngày hôm trước. Trong cơn đau buồn, Chỉnh vội chạy đến bên quan tài, khóc lóc vô cùng thảm thiết. Tú bà thấy Chỉnh đáng thương liền đến bắt chuyện hỏi han, nhờ vậy Chỉnh mới hiểu rõ sự tình.
Thân phụ của Tuyết Hoa vốn làm quan lớn ngoài Huế. Gia đình trốn chạy vào đây vì tranh giành quyền lực. Mẹ mất vì bạo bệnh. Triều đình biết nơi cha nàng đang lẩn trốn liền thông đồng với quan Pháp bắt tội tống giam. Nhà phải bán hết gia sản mới chuộc ra được. Không lâu sau, đến lượt ông cha lại mang bạo bệnh, khó lòng qua khỏi.
Nghe đâu có một thầy thuốc cao tay từ bên Quảng Đông sang, mách nước là nên tìm một viên nội đơn thạch ngọc thuần dương để đẩy âm khí trong người thì may ra sống lại được. Tuyết Hoa vì lo bệnh tình cho cha, chỉ mong ai cứu được ông thì sẵn lòng nâng khăn sửa túi hoặc coi như con ở cũng được. Tú bà họ Thân thực tình cảm động trước hoàn cảnh. Vốn dĩ bà cũng xuất thân từ tầng lớp thấp kém, trải qua bao sóng gió tưởng chừng như cảm xúc đã chai sạn, nay gặp Tuyết Hoa thì lấy đó làm chuyện đáng trân trọng, cũng không nỡ ép uổng cô làm gì, đành thuận theo. Ai ngờ ba hôm trước, một quan lớn người Pháp ghé chơi, thấy nhan sắc Tuyết Hoa thì liền rung động. Chẳng màng đến yêu cầu của giai nhân về chuyện tìm người cứu thân phụ nàng, gã người Pháp cứ dùng vũ lực bắt nàng về. Tú bà thấy vậy liền can ngăn, hẹn với y cho thời hạn ba ngày để thuyết phục Tuyết Hoa, không thì mọi chuyện e là sẽ đổ bể hết thì hỏng.
Thấy tính tình Tuyết Hoa quyết liệt, gã người Pháp ưng thuận. Y vừa về xong, tú bà bèn dùng lời lẽ ướm thử với Tuyết Hoa, nào ngờ nàng vẫn một mực chối từ, sang hôm sau thì tự tử trong phòng. Phụ thân của nàng hay tin thì thổ huyết, tính mạng thập phần nguy hiểm, chỉ còn một vài ngày nữa cũng sẽ đoàn tụ với Tuyết Hoa mà thôi. Chỉnh nghe thấy vậy cả giận, định tìm tên người Pháp đó mà phanh thây cho hả, vừa mới đi ra đường thì gặp một thanh niên cao ráo bước đến, người này thấy Chỉnh liền cất tiếng chào hỏi.
Vốn dĩ Chỉnh định một mạch đi thẳng, nhưng người kia dùng lục ngữ hành lễ. Lục lâm tuy là chốn giang hồ bí mật, dù vậy lễ nghĩa tuyệt nhiên không thiếu sót, Chỉnh bèn đáp lời. Chào hỏi vài câu thì biết người thanh niên đó là Năm Tràm, tên thật là Nguyễn Thanh Nghị, ngày xưa cả hai từng gặp nhau ở Phú Quốc trong một cuộc đập miễu.
Nghị thấy Chỉnh nét mặt ưu tư sầu muộn nhưng nộ khí ngất trời, bèn hỏi chuyện. Quả nhiên nghe xong cũng lấy đó làm bất bình, tuy vậy lại không tán thành cách làm của Chỉnh, Nghị nói:
– Huynh đây chớ cả giận mà làm ẩu. Thời nay Phú Lang Sa nắm quyền hành mạnh gấp mấy lần triều đình khi xưa rồi. Những bậc tiền bối ngày trước chỉ trốn quan binh thôi đã khó, mắc mớ gì huynh chọn cách đối đầu với bọn chúng làm gì? Chi bằng nghĩ cách cứu mạng phụ thân của Tuyết Hoa cô nương, rồi tìm hiểu bí thuật lục lâm mình, há chẳng có cách rửa oan cho cái chết của Tuyết Hoa hay sao?
Chỉnh nghe xong thấy cũng có lý, nhưng lửa giận ngút trời, vẫn quyết chí trừng phạt tên kia cho kỳ được. Nghị thấy tình hình không xong, trong phút chốc nhớ lại chuyện gì đó, liền níu tay Chỉnh lại, kéo vào con hẻm gần đó, nói:
– Mỗ tôi thấy anh là người có tài, tuyệt nhiên không phải loại phàm phu, sau này ắt làm nên đại sự, cho nên trong chuyện này cứ năm lần mười lượt cản trở anh. Thực ra là do tôi đã có cách chu toàn để giải quyết chuyện này!
Chỉnh trố mắt ngạc nhiên, không hình dung nổi có bí mật nào mà Nghị có thể đem ra cứu mạng được hai cha con Tuyết Hoa. Tuy nhiên cũng nhờ vậy, nhất thời kìm nén được cơn giận, vẻ mặt bình tĩnh lại, hỏi Nghị xem cách đó là gì. Nghị nhìn trước sau một lượt, thấy an toàn, liền nói:
– Ở Trà Vinh có một khu rừng, trong đó có chôn một mộ huyệt của vị quý tộc triều đình xưa, chết trận ở đấy nên tiện lập thành mộ. Mộ rất bề thế, bao bằng ba lớp đá xanh nguyên khối, lại chôn sâu mười thước, bên trên không có mộ phần cũng như bia đá gì cả, người thời sau chẳng biết được chính xác vị trí. Theo lời một số thả diều lâu năm gần đó kể lại, trong những truyền thuyết được kể đều nhắc đến trong đó có hai báu vật là một viên Xuyên Giang Thổ Long Ngọc. Loại ngọc đó sinh ra ở những nơi núi cheo leo, địa chất khác lạ, thổ nhưỡng hiếm có, chỉ xuất hiện ở dải Trường Sơn. Trong giới săn lan đánh giá, ngọc đó thuần dương, để giải độc cho thân phụ Tuyết Hoa, viên đó vô cùng phù hợp. Tuy nhiên, thứ còn lại cũng vô cùng quý giá. Đó là tượng ngọc của một con quạ ba chân, được gọi là Kim Ô Linh. Hơn hai mươi năm trước, một người săn lan tên là Đoàn Phúc Nguyên đã tìm thấy mộ huyệt, lấy ra thành công hai vật báu đó. Phần viên ngọc quý thì Phúc Nguyên biết được công dụng, thành ra luôn đem theo bên người, nhưng nhất thời ông ta chưa hiểu Kim Ô Linh có công dụng gì nên đem bán cho một người phú hào. Sau này, Phúc Nguyên mới biết được, Kim Ô Linh là pháp bảo của một ngôi đền bên Tích Lan lưu truyền qua Việt Nam hơn ba trăm năm trước. Kim Ô Linh nếu được khai triển, có thể triệu hồi người chết về dương thế được một ngày. Phúc Nguyên tìm đến tay phú hào xưa, định mua lại thì mới biết ông ta đã bán nó từ lâu. Những người mua được đều biết rõ công dụng của nó, nhưng toàn làm những chuyện thương thiên hại lý, gây nên bao cảnh lầm than trong dân gian, khiến luân thường đạo lý bị suy đồi. Phúc Nguyên hận quá, ra tay hạ sát hết những người đó, tuy nhiên lại cảm thấy hối lỗi vô cùng, hứa không thể để vật này lọt ra bên ngoài được. Ông ta bèn quy y, dựng một ngôi chùa ở Sóc Trăng tên là Già Long Tự, cất giấu hai pháp bảo tại đó. Năm năm trước ông viên tịch, đệ tử hóa chung hai pháp bảo đó theo thi thể.
Chỉnh nghe thấy vậy liền thất vọng, nói:
– Ông anh ơi là ông anh. Nói vậy chẳng phải là chúng đều bị hủy rồi hay sao? Làm gì còn có hy vọng? Ông anh kể ra khác nào làm mất thời gian của tôi đây.
Nói đoạn, Chỉnh định bụng bỏ đi. Nghị cản lại, nói:
– Huynh chớ hấp tấp, hãy nghe ta nói tiếp đã. Trước lúc viên tịch, Phúc Nguyên dùng hết đạo pháp của mình, dựng ra một Thiên. Ông ta đặt tên là Vong Hồn Gia Trú Thiên, sau khi chết sẽ để linh hồn của mình trong đó, tiếp tục canh giữ hai vật báu kia mà không màng đến luân hồi. Ba hôm trước tôi có đi ngang chùa Già Long, xin vào tá túc. Chuyện này là chính trụ trì hiện nay kể lại cho tôi, Vong Hồn Gia Trú Thiên được những người tu hành ở đó gọi là Chùa Chìm. Chỉ biết nó nằm gần chùa, đường vào người thường dễ gì biết được, nhưng tôi với anh có thể vào đó!
Nói xong, Nghị liền kề vào tai Chỉnh, trình bày cách thức. Chỉnh nghe xong, khuôn mặt không còn nộ khí, liền gác lại chuyện giết tên quan Pháp, cùng Nghị lên đường đi Sóc Trăng tìm Chùa Chìm.
Chuyện đến chùa Già Long thiết nghĩ không cần kể ra làm gì. Tuy nhiên cả hai khi đến nơi, liền đi kiếm một khu nghĩa địa, mục đích để chuẩn bị cho việc tiến vào Chùa Chìm. Như đã biết, Chùa Chìm thực chất được tạo nên bởi một Thiên theo cách bố pháp của hàng thịt, được Đoàn Phúc Nguyên tự tay tạo nên. Một Thiên là khu vực được chỉ định theo ý muốn của hàng thịt sao cho chỉ có những cá thể đáp ứng được lời Chú ứng trong Thiên đó mới được. Còn không thì tùy theo cách bố pháp, người phạm vào quy tắc của Thiên nhẹ thì bị đoạt hồn, nặng thì chết không toàn thây. Chỉnh và Nghị đều là tay lục lâm cứng cựa, dễ gì tiến vào đó không có sự phòng bị.
Lần ấy, khi nghe trụ trì chùa Già Long kể về sự tích, liền lấy đó làm sự nghi hoặc, định bụng có dịp sẽ kiểm chứng thực hư. Nghị có tìm một số hàng thịt hỏi về cái gọi là Vong Hồn Gia Trú Thiên thì mới hiểu ra căn nguyên. Theo lục lâm, con người có ba phần cấu tạo, gọi là Hồn, Phách và Vong. Vong tạo ý niệm, Hồn tạo tinh thần, Phách tạo thể xác, cho nên nếu người sống bước vào Thiên này rất dễ bị tiêu Phách, cơ thể dần hoại tử mà chết. Nếu Chỉnh và Nghị muốn vào, trước tiên phải làm họ trở thành… người chết cái đã. Phách người sống thuần dương, dùng nước trong quan tài bôi khắp lên mình, dùng móng tay người chết đắp lên cổ, cách làm này hết sức nguy hiểm vì âm khí và trùng độc có thể nhập vào cơ thể bất cứ lúc nào. Cho nên trước khi làm phải uống rượu làm từ giấm và thảo dược đặc chế, miệng ngậm ngọc âm thì mới tránh được nguy cơ đó. Ngoài ra, mắt thường sẽ không thể nhìn thấy lối vào nếu không có trợ thủ, là bó đuốc được đốt bằng vải liệm có vẽ bùa.
Nghị thấy ở sau chùa Già Long vẫn có thiết kế đường âm, vậy thì Chùa Chìm ắt hẳn chỉ ở đâu đó quanh con đường này. Sáng sớm tinh mơ hôm đó, khi gà chưa gáy, cả hai đứng ở đầu đường âm, Chỉnh cầm theo con mèo đen, Nghị cầm cây đuốc vải liệm. Ánh lửa xanh lơ lập lòe, soi chẳng được bao xa đã mất hút trong màn sương sớm lạnh ngắt. Đợi khi gà vừa cất ba tràng tiếng gáy, Chỉnh quăng con mèo xuống, nó vụt chạy đi về hướng Đông Bắc, lập tức cả Chỉnh và Nghị đi về hướng Tây Nam, đúng sáu mươi chín bước chân, tất cả đều phải vừa đúng, không sớm không muộn mà cũng không thừa không thiếu. Họ đi xăm xăm, hướng đó dẫn đến một cánh rừng nhỏ toàn cây me dại. Sương trong này dày đặc, không khí âm hàn, xung quanh chỉ hắt lên hình ảnh mờ ảo của cây cối xung quanh. Bước chân cuối cùng vừa xong, màn sương trước mặt họ tựa như có ai đó thổi dạt sang một bên, để lộ một cái cổng bằng gỗ, làm theo kiểu xưa, với đấu củng và hoành phi, trông cổ kính uy nghiêm.
Nghị cầm đuốc tiến lên trước, Chỉnh đã thủ sẵn cây dao găm. Hai người, một trước một sau, tiến đi chầm chậm trong màn sương vẫn còn dày đặc phía trước. Đi chừng trăm bước chân nữa thì sương tan hẳn. Cả hai trông thấy một cái cổng khác, rất cao, cột trụ đều làm bằng thân gỗ nguyên khối sừng sững. Mái ngói xanh, xà ngang chạm trổ rồng phượng hết sức tinh xảo, đấu củng nâng cao vô cùng cầu kỳ. Hai bên cổng chính, bên phải dựng một cây chùy sắt khổng lồ, bên trái là một thanh roi sắt, cả hai đều cao đến đỉnh cổng. Từ cổng chạy dài vào trong là con đường lát đá xanh, có thể thấy được rằng nơi này chính là Chùa Chìm. Sương chỉ phủ khu vực xung quanh, trong này cảnh vật sáng sủa, trồng nhiều cây tha la. Cuối con đường là một tòa chánh điện không lớn lắm, tuy nhìn đơn sơ nhưng vẻ trang trọng thanh tịnh không hề thiếu.
Chỉnh thấy đã đến nơi liền bảo Nghị cắm cây đuốc xuống, bỗng từ phía xa có hai chú tiểu, vẻ mặt bình thường nhưng một người da xanh lá một người da đỏ như Quan Công đang đi xăm xăm lại. Thấy Chỉnh và Nghị, họ chắp tay rồi nói:
– Khách phương xa đường đột đến đây, viếng sư thầy hay muốn lấy pháp bảo?
Bọn Chỉnh nghe xong bỗng thất kinh, cảm thấy khẩu khí hai chú tiểu này không hề bình thường, sát khí tỏa ra trong phút chốc rất khủng khiếp, Nghị lựa lời nói:
– Tại hạ phương xa tới đây, vừa hữu duyên, vừa cố ý, mong gặp trụ trì có thỉnh cầu.
Nghị chưa dứt lời, hai chú tiểu đồng thanh hét lên:
– Dám nói lời dối trá trong chốn tôn nghiêm, bọn mày cũng to gan lớn mật lắm!
Vừa dứt lời, cả hai hóa thành hai hộ pháp, khuôn mặt dữ tợn, thân hình cao dễ đến bảy, tám mét, hai pháp khí dựng bên cổng liền bay đến. Thanh Đồng Hộ Pháp cầm Thiết Tiên Sát, Xích Đồng Hộ Pháp sử dụng Kim Cang Chùy, chẳng thèm nghe bọn Chỉnh và Nghị thanh minh thêm lời nào, liền lao vào tung ra toàn những chiêu đoạt mạng!