Trung thu: Mùa hội tình yêu của nước Việt

Tác giả Wong Trần
Trung thu: Mùa hội tình yêu của nước Việt

Trong văn hóa truyền thống nước Việt, trung thu là ngày Tết trẻ em. Mỗi năm vào dịp này, nhà nhà bày cỗ bàn bánh trái, mua lồng đèn và các thứ đồ chơi bằng thiếc. Trẻ em được dịp đánh chén, rước đèn, xem múa sư tử và đi khắp nơi bắt cái hồ khoan (có khi đọc là hò khoan). 

Lối hát bắt cái hồ khoan này bao gồm một đứa trẻ xướng lên trước: “Bắt cái! Bắt cái! Này”, rồi hát lên một câu, hoặc nửa câu. Những đứa trẻ đi sau đồng thanh nối theo. Lời hát tuy do trẻ con hát, nhưng thường là những câu hát huê tình:

Bắt cái! Bắt cái! Nầy: hò khoan!
Đi đâu mà chẳng lấy chồng - Hò khoan!
Người ta lấy hết, đứng không mà gào? - Hò khoan!

Trên Công Luận báo ngày 26-4-1917 còn nói thêm, vào dịp trung thu, trẻ con còn hát câu này:

Xin anh nghĩ lại kẻo lầm
Lòng em vằng vặc trăng rằm trung thu
Trăng trung thu còn khi mù khi tối
Lòng em thì mãi mãi không sai

Lời hát trẻ con như lời gợi mở cho nam thanh nữ tú trên khắp xóm làng phường phố. Nó nhắc mọi người rằng trung thu không chỉ là ngày tết trẻ con, mà còn là mùa hội giao duyên, là dịp để nam nữ kết tình đôi lứa. Ở khắp nơi trên đất Việt, nam nữ cất lên lời ca bày tỏ lòng mình dưới ánh trăng ngà.

Trong đường xóm, trống chiêng chung nhịp nổi
Trẻ con theo Sư tử rước vang ầm
Ngoài đình sáng, tiếng cười chen tiếng nói
Gái trai làng ra họp hát trống quân

(Rằm Tháng Tám - Anh Thơ)

Hát trống quân là sinh hoạt dân gian của người Việt ở các làng quê Bắc Bộ. Một số nghệ nhân cho rằng tục hát này có từ thời Trần, hoặc thậm chí từ thời Tiên Dung và Chử Đồng Tử. Nhưng Phan Kế Bính (1915) lại cho rằng tục hát này bắt nguồn từ thời Nguyễn Huệ. Khi đem quân ra Bắc, để binh sĩ khỏi nhớ nhà, ông đã cho quân sĩ giả làm trai gái đối đáp làm vui. Còn nhà nghiên cứu người Pháp là Georges Cordier (1920) lại cho rằng chữ trống quân vốn là chữ tống quân (送君- tiễn bạn). Tục thời xưa khi các viên quan rời nhiệm sở để đi trị nhậm chỗ khác, sẽ có lệ hát tiễn nhau. Về sau chữ tống quân bị đọc trại thành trống quân

Vào đầu thế kỷ 20, hát trống quân đã phát triển lắm. Đến mức người ta tập hợp các bài hát trống quân, chép ra chữ Nôm, đem khắc ván in và bán cho dân chúng. Những sách này thường mang nhan đề Trống quân tân truyện 𪔠軍新傳. Mà đã có tân truyện (truyện mới) ắt hẳn phải có cựu truyện từ trước rồi. Trong số các bản này, có hai bản Trống quân tân truyện còn đề niên đại khắc in. Chúng đều thuộc về tàng bản của nhà in Thịnh Mỹ đường, khắc vào niên hiệu Thành Thái Ất Tỵ (1905) và Duy Tân Kỷ Dậu (1909). Trên các bản in này, chữ quân được sử dụng là chữ quân 軍 trong quân đội. Đó hẳn là lý do để người ta gắn nguồn gốc của lối hát này với sinh hoạt của người lính.

Đặc trưng của tục hát này là chiếc trống đất, có nơi gọi là trống thùng. Nhưng tên gọi chính xác và chung nhất có lẽ là trống quân. Chữ quân còn gợi cho chúng ta về đặc trưng của loại trống này. Đó là quân 均 – nghĩa là cân bằng. Cấu tạo của chiếc trống khá đa dạng, nhưng về nguyên lý thì gồm hai phần cơ bản: một đoạn dây mây được căng thẳng cố định với một bộ phận đóng vai trò là thùng trống. Nam nữ chia thành hai bên. Khi hát, họ dùng dùi gõ vào đoạn dây mây để phát ra tiếng trống theo nhịp điệu. Ca dao có câu:

Trống quân ta lập bằng mây
Trời sai ta xuống làm thầy trống quân
Trống quân ta lập bằng thừng
Bên trai bên gái hát mừng trống quân

Hát trống quân được tổ chức vào mùa thu, đặc biệt là vào tháng Tám. Vào đêm trăng sáng, người ta dựng trống. Nam nữ tụ hội, chia thành hai bên. Hát đối đáp qua lại. Lời hát chủ yếu theo thể lục bát. 

Trống quân em đánh nhịp ba
Em vào nhịp bảy, nó ra nhịp mười
Anh nào có vợ thì thôi
Anh nào chưa vợ thì chơi kẻo già   

Cuộc hát trống quân thường có ba giai đoạn. Giai đoạn mở đầu hát chào nhau, chúc tụng, giao hẹn, mời nước, mời trầu. Giai đoạn thứ hai cũng là trung tâm của cuộc hát. Hai bên hát những bài xướng họa, hoặc hát đố, hát truyện, hát giao duyên. Giai đoạn cuối là những lời hát từ giã, chia tay nhau ra về. Ở phần này, ngoài điệu hát trống quân người ta còn hát những thể loại nhạc dân gian khác. Hát trống quân thường cũng được tổ chức thành một cuộc thi. Hai bên nam nữ hát đối nhau. Bên nào không hát được tiếp nữa thì bên kia chiến thắng. Phần thưởng thường là một quan tiền hoặc vài chiếc khăn.

Một trong những nội dung cuộc hát là lời ướm hỏi của đôi bên nam nữ để tiến tới hôn nhân. Trong cuộc hát này, không chỉ người con trai ở vào thế chủ động, mà người con gái cũng có thể mở lời. Vào đầu thế kỷ 20, Nordemann (1914) đã ghi lại một vài bài hát như vậy:

Trong tập Hát trống quân xuất bản năm 1933 tại Hà Nội, người ta còn ghi lại được một cuộc hát có thể xem là tiêu biểu cho tính chất giao duyên. Người con trai hát mở lời, ướm hỏi người con gái đã bén duyên với ai chưa. Khi biết người con gái còn chưa có lứa đôi, chàng trai liền ngỏ lời kết đôi. Cô gái vì chưa biết được gì về chàng trai, nên ngỏ ý muốn thử tài. Người con gái hát hỏi chàng trai những việc trong truyện thơ Nhị độ mai. Người con trai đều trả lời tường tận. Cuộc hát chuyển sang phần ước hẹn:

Anh đà giảng được phân minh
Thời em phải kết duyên lành với anh

Sau những lời hát qua lại, người con gái cuối cùng cũng chịu nói rõ thân phận:

Thưa rằng chút phận má đào
Ngọc lành còn đợi anh hào rắp danh
Tên em là Vũ Thị Thanh
Quê ở Phủ Thuận Thành Bắc Ninh
Tuổi vừa đôi tám xuân sanh
Mẹ cha chưa định duyên lành nơi nào

Chàng trai biết được điều đó thì vui mừng khôn xiết, liền ngỏ lời cầu hôn cô gái. Cô gái hát đáp lời ưng thuận. Chàng trai hát kết:

Anh về lo liệu hôm mai
Thưa trình bác mẹ liệu bài mối manh
May ra đẹp chữ duyên lành
Phu thê hòa hiệp ba sinh vẹn tròn

Trong lúc ở dưới đồng bằng vang lên nhịp trống quân thì trên vùng núi, những câu hát lượn Nàng Hai của người Tày cũng vang lên. Lượn Nàng Hai gắn liền với các hoạt động diễn xướng khác nhau liên quan đến Hằng Nga. Nó bao gồm: hát hội Hằng Nga, hội diễn Hằng Nga và lễ hội Hằng Nga. Ngoại trừ lễ hội Hằng Nga được tổ chức vào mùa xuân, hai loại hình đầu thường diễn ra vào mùa thu.

Vào dịp đêm thu trăng sáng, nam nữ người Tày rủ nhau tổ chức hát hội Hằng Nga. Hát hội Hằng Nga là một hình thức diễn xướng mang tính tâm linh. Một cô gái được chọn làm chị Cả. Một cô gái khác nhẹ vía được trùm lên đầu một chiếc khăn đỏ. Cô ngồi xếp bằng, hơi cúi người, hai khuỷu tay chống lên đùi, hai bàn tay úp lên má, hai ngón tay trỏ thì bịt hai lỗ tai. Cô gái lặng im. Chị Cả đốt hương, khấn khứa, bắt quyết, rồi xướng lên lời mời hồn Hằng Nga về nhập vào cô gái:

Hồn thơ hãy chuyển hình
Vía trẻ hãy chuyển thân
Chuyển hình để chờ Nàng
Chuyển thân đón Bóng Nguyệt
Vía trẻ ra đầu gối bên phải
Hồn Hằng Nga vào đầu chân bên trái
Mời Hằng Nga đến như ống nước đổ
Mời chị Nguyệt tới tựa cơn mưa rào
Đến ào ào như con rồng qua thung lũng

Cô gái nhẹ vía bắt đầu lắc lư, đảo nửa người theo vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ. Hồn Hằng Nga đã nhập vào cô gái. Cô gái bắt đầu nói năng bằng một giọng khác với ngày thường. Cô trả lời các câu hỏi của các chàng trai, cô gái về những chuyện quá khứ và tương lai, về đường tình duyên hay tiền đồ sự nghiệp. Họ đối đáp nhau bằng những bài lượn của dân tộc.

Lồm mà bươn pét khẩu voòng bân
Xiên lý bân mừa ngậy phất săm
Ngản rạ bân mừa rầu hăn nả
Sương căn chăn gạ bấu hăn vần
(Tháng tám trời xanh lúa đón đòng
Mấy lời nhớ bạn gửi thư phong
Nhớ bạn tình nhân thư phải gửi
Ước chi gần mặt ngày ngày trông)

Một trong những chủ đề của buổi hát là hát kết duyên:

Kết duyên táng bản bạn đàng xa
Thục Đế Hằng Nga kết mặn mà
Duyên số kết đây se tó tý
Lai gần thiên hạ bấu riêng rà
(Kết duyên khác bản bạn đường xa
Y như Thục Đế kết Hằng Nga
Kết duyên để đẹp tương lai đó
Nhiều người thiên hạ chẳng mình ta)

Cô gái nhẹ vía chỉ hát khoảng nửa giờ. Cô chị Cả làm lễ trả hồn Hằng Nga về trời, gọi hồn cô gái trở lại. Sau đó, một cô gái khác được thay vào. Cuộc hát lại diễn ra tương tự. Cứ thay đổi như thế, cho đến khi trăng gần lặn thì hội hát cũng tàn. 

Bên cạnh hát hội Hằng Nga, vào mùa thu, người Tày còn có hội diễn Hằng Nga. Hội diễn thường tổ chức trong ba đêm. Một sân khấu đơn giản được dựng lên. Ở vùng Thất Khê của tỉnh Lạng Sơn, Đông Khê của tỉnh Cao Bằng, sân khấu là một cái rạp dựng theo hình chữ Nguyệt, tết hoa lá; bên trong bày trí các loại xôi nhuộm màu xanh, tím, đỏ, theo hình khối tượng trưng cho trời đất, mặt trời, mặt trăng, các loại động thực vật gần gũi với con người. Bảy cô gái chừng 15-16 tuổi, chưa lập gia đình, được chọn ra biểu diễn. Trong đó, một cô gái đóng vai chàng nông dân nghèo, một cô gái đóng vai Nàng Hai – tức Hằng Nga. Hai người cùng các cô gái khác hát đối đáp nhau. Họ kể câu chuyện cổ xưa:

Chàng nông dân nghèo không có tiền cưới vợ. Những đêm trăng sáng, tiếng hát giao duyên của người hát hội Hằng Nga theo gió bay về. Chàng nông dân buồn bã chỉ biết nhìn trăng mà than thở. Hằng Nga động lòng, rời cung Quảng Hàn xuống trần cùng chàng hát đối đáp, tâm sự. Họ kết thành vợ chồng. Sau ba ngày đêm gắn bó, Hằng Nga trở về cung Quảng Hàn.

Câu chuyện tuy đơn giản, nhưng không kém phần lôi cuốn. Trong lúc hát, người xem cao hứng có thể lên sân khấu hát. Bảy cô gái hát đáp lại, cố gắng lái câu chuyện về với kịch bản ban đầu.

Hội diễn Hằng Nga được luân phiên tổ chức giữa các bản. Trên vùng núi cao, các bản thường tọa lạc ở những nơi hẻo lánh xa xôi. Những sinh hoạt hát hội, hội diễn và lễ hội Hằng Nga chính là dịp trai gái các bản biết đến nhau, cùng nhau hát hội, giao lưu tình cảm. 

Người Nùng Phàn Sình (hay còn gọi là Nùng Phàn Slình) ở miền núi phía Bắc cũng xem trung thu là dịp bày tỏ tình cảm với nhau. Người Nùng Phàn Sình sống chủ yếu ở các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn và Bắc Giang. Họ gọi tết trung thu là Pét Ngột Slíp Hả. Để chuẩn bị cho trung thu, họ đi chợ phiên ở Kỳ Lừa (Lạng Sơn) để mua sắm. Đó là dịp người Nùng Phàn Sình từ khắp các tỉnh khác đổ về Kỳ Lừa.

Chợ phiên Kỳ Lừa trước ngày trung thu là đông vui nhất. Người Nùng Phàn Sình gọi là Pét Ngột Slíp Nhì – tức ngày 12 tháng 8 âm lịch. Từ chiều tối ngày 11, người ta đã đi chợ. Từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 8, ở Kỳ Lừa cũng là hội Háng Pỉnh (hội bánh nướng). Đây là dịp để nam nữ từ các vùng xa xôi được gặp gỡ nhau. Họ cất lên những câu hát sli đầy tình tứ. Chàng trai thường là người mở lời hát trước:

Chàng trai cô gái người Nùng Phàn Sình nào tìm thấy được người thương thì sẽ mua bánh trung thu tặng nhau để làm quà. Chiếc bánh trung thu như một lời bày tỏ tình cảm. Những người thương nhau nhưng không đến được với nhau cũng được dịp gặp nhau thăm hỏi mà không sợ bị xã hội phê phán. 

Mùa hội trung thu, dưới vầng trăng sáng, lẫn giữa những đứa trẻ nô đùa là những người nam và người nữ. Đó là dịp họ gặp được nhau. Thông qua câu hát tình yêu, cảm tình nảy nở. Họ hiểu nhau hơn và kết thành đôi lứa; bằng tiếng hát trống quân, bằng câu sli, câu lượn. Trung thu chính là mùa hội tình yêu của dân tộc Việt.

Ngày nay, khi văn hóa phương Tây tràn vào, người ta chỉ còn biết đến ngày 14/2 là ngày lễ tình nhân. Các cô gái háo hức chờ đợi những món quà từ các chàng trai. Họ đâu biết được: Trung thu cũng có thể đòi quà.

Art Director Lê Minh
Designer Mỹ Thanh
Animation Mỹ Hân

Chia sẻ câu chuyện này
Share