Đao Á Đông: Ánh thép tử thần

Tác giả Đông Nguyễn
Đao Á Đông: Ánh thép tử thần

Nếu không tính súng ống, đao và kiếm là một trong những thứ binh khí xuất hiện muộn của loài người. Đao, kiếm cần có lưỡi dài mà chỉ kim loại đạt yêu cầu, trong khi các loại lưỡi đá dài, mỏng sẽ rất giòn và dễ gãy. Bởi thế, chỉ từ thời kỳ Đồ Đồng (khoảng 5000 năm trước), những thanh kiếm đầu tiên mới được phát minh. 

Đao Á Đông
Đao Á Đông

Những thanh kiếm đầu tiên đều có lưỡi thẳng và hai cạnh sắc, mũi nhọn, phù hợp cho cả chém và đâm. Tuy nhiên, rất mau sau đó, người ta nhận ra rằng đôi khi chỉ cần mài sắc một cạnh là đủ, trong khi cạnh còn lại có thể làm dày để tăng khả năng chịu lực. Thế là những loại kiếm có lưỡi và sống đã ra đời, trong đó có cây đao của người Trung Quốc cổ đại. Tuy nhiên, trong phần lớn thời kỳ Đồ Đồng và sơ kỳ Đồ Sắt, kiếm thẳng hai lưỡi vẫn là thứ vũ khí chủ chốt, còn đao thì rất hiếm.

Sang thời Hán, những cây đao thép dần trở nên phổ biến nhờ chế tác dễ dàng mà thời gian luyện tập để làm quen ngắn hơn hẳn so với kiếm. Không chỉ trong Trung Quốc, đao cũng phát tán ra các nền văn hóa xung quanh ở Trung Á và Đông Á. Nhưng diện mạo của chúng rất khác so với đao sau này. Chúng đều có lưỡi thẳng và hẹp, đôi khi dài đến 120 cm. Chuôi đao có một vòng sắt để buộc dây vào cổ tay, tránh đao rơi khỏi tay khi vung hoặc cưỡi ngựa.

Trong những thế kỷ tiếp theo, đao Á Đông bắt đầu biến tấu về kích thước, tỷ lệ, chẳng hạn Mạch Đao hoặc Trạo Đao có chuôi rất dài (dài gần như cán thương), trong khi lưỡi ngắn, nặng để tăng tầm và lực chém, Bội Đao lại có chuôi ngắn, lưỡi dài như đao thời Hán. Tuy nhiên điểm chung là chúng đều có lưỡi thẳng. 

Đao Á Đông

Trong khi đó, trên thảo nguyên Trung Á, những thợ rèn Đột Quyết thế kỷ thứ 6, thứ 7 bắt đầu thử nghiệm với lưỡi đao cong. Họ nhận thấy đao cong tăng hiệu quả chém hơn, do tại mỗi thời điểm, chỉ một điểm trên lưỡi tiếp xúc với mục tiêu, nghĩa là áp suất cao hơn hẳn so với nếu nhiều điểm cùng tiếp xúc. Đồng thời, lưỡi cong cũng chịu lực tốt hơn hẳn, do đó phù hợp với những cú chém từ lưng ngựa khi đang phi với tốc độ cao. Từ thế kỷ 13 trở đi, đao cong đã thay thế đao thẳng trong các đội quân du mục. 

Sau đó, khi các đế quốc du mục Khiết Đan, Mông Cổ thống trị Trung Hoa từ thế kỷ thứ 10 đến 14, đao cong cũng du nhập vào các nền văn hóa định cư Á Đông, bao gồm cả Việt Nam và Cao Ly. Tại Nhật Bản, cùng thời điểm đó, người Nhật cũng thiết kế Thái Đao (Tachi) với lưỡi cong, nhưng do tiếp thu loại đao của các kỵ binh Emishi bản địa vùng Đông Bắc đảo Honshu, chứ không qua con đường đại lục.

Từ thế kỷ 15 trở đi, đao đều có lưỡi cong, bất chấp là đao kỵ binh hay bộ binh. Giai đoạn này cũng chứng kiến sự hợp nhất của hai dòng đao cong phát triển độc lập ở Đông Á: Đao du mục và đao Nhật Bản, khi mà Mạc Phủ Muromachi ở Nhật tích cực xuất khẩu đao sang nhà Minh. Lưỡi đao Tachi đã được người Tống đánh giá cao về chất lượng chế tác và chuộng mua từ thế kỷ 11. Tuy nhiên, với hàng trăm ngàn lưỡi mỗi năm, thế kỷ 15 mới thực sự là đỉnh cao của xuất khẩu đao sang Trung Quốc của Nhật Bản. Chẳng hạn, tướng quân Lam Ngọc bị Minh Thái Tổ quy kết tội mưu phản khi khám phủ đệ ông này thấy có gần một vạn thanh Oa đao. 

Khi đối đầu với Oa Khấu ở thế kỷ 16, nhà Minh nhận thấy những ưu điểm của trường đao Nhật Bản và họ đã mô phỏng lại loại đao này rồi trang bị cho chính binh sĩ của mình. Tại Việt Nam, giao thương với Nhật Bản thế kỷ 17 cũng bao gồm nhập khẩu binh khí, và rất nhiều lưỡi đao được nghệ nhân bản địa chế tác với các yếu tố Nhật.

Đao Á Đông

Từ thế kỷ 15 trở đi, các nước Đông Á đã tách bạch hai phân loại: Kiếm là vũ khí hai lưỡi thẳng, và Đao là thứ một lưỡi cong. Tuy thế, trong dân gian vẫn có sự nhập nhằng giữa hai loại. Chẳng hạn, nhiều tài liệu dân gian Việt Nam vẫn gọi thứ đao dài cong là Trường Kiếm. Sự nhập nhằng này kéo dài đến tận ngày nay, khi đa số các ấn phẩm, phim ảnh vẫn dịch Đao KatanaKiếm Nhật, mặc dù người Nhật dùng chữ Hán Đao cho chúng. Ngoài ra, do tầm ảnh hưởng văn hóa của các môn phái võ thuật Trung Hoa trong đời sống thường nhật và phim ảnh, trong đó loại hình đao sử dụng chủ yếu là Nam Đao (loại đao vùng phía Nam Trung Quốc) với lưỡi ngắn và rộng bản, người ta cũng ngộ nhận rằng Đao phải có lưỡi rộng, còn đao lưỡi hẹp là Kiếm.

Với lịch sử kéo dài hơn 2000 năm, đao Á Đông có rất nhiều câu chuyện để kể. Bài viết này mới chỉ chạm vào bề nổi của phân loại và lịch sử phát triển của chúng. Trong những bài tiếp theo, chúng tôi sẽ khai thác từng loại đao cụ thể, như các loại đao Nhật Bản hoặc Gươm Trường của Việt Nam, nhằm giới thiệu tới độc giả những biến thể đặc sắc của thứ binh khí được xưng tụng là tướng quân binh khí.

Chia sẻ câu chuyện này
Đao Á Đông
Share