Bởi đóng vai trò người trung gian, nên người hầu đồng không thể biết trước được vị thánh nào sẽ giáng đồng hay nhập đồng trong buổi hôm đó. Vị thánh nào giáng thì ông đồng bà đồng sẽ dùng cử chỉ tay để báo hiệu: nam thần dùng tay trái, nữ thần dùng tay phải, dùng số lượng ngón tay để phân định thứ bậc từng vị Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam,… Lúc thánh thăng thì người ngồi đồng sẽ làm dấu bắt chéo tay trước mặt, miệng nói “Thánh giá hồi cung” hoặc “Xa giá hồi cung”.
Mỗi lần thánh giáng, thánh nhập hay thăng là một lần ông đồng bà đồng thay trang phục mới đúng với thân thế của thần, ví như các Chầu là người dân tộc thiểu số thì mặc trang phục có màu lam sẫm, màu chàm, thắt khăn đen, đeo kiềng bạc, múa hát điệu Xá,… Ông đồng bà đồng còn phải tái hiện hình ảnh thánh thần đúng như khi họ còn tại thế – bất kể giới tính của người ngồi hầu bóng – ví như các Ông Hoàng thì bộ điệu phải uy nghi dũng mãnh, biết hút thuốc uống rượu lại giỏi múa kiếm múa đao; các Chầu Bà thì yểu điệu, xinh tươi, còn các Cô Bé Cậu Bé phải có nét tinh nghịch, hồn nhiên đúng tuổi. Một lần ngồi hầu có thể có đến hàng chục giá khác nhau, người đồng cốt vì thế mà phải biết biến đổi linh hoạt sao cho xứng ý các thần.
Lúc nhập đồng, trong làn khói hương bay tỏa cùng mùi thơm rượu thuốc cùng âm nhạc mê say và muôn lời tán dương của các con nhang đệ tử vây quanh chiếu hầu, người hầu đồng ngây ngất đi trong một trạng thái lâng lâng khó tả, họ quên mất bản thân mình mà hành xử như một người khác hẳn: ấy là thần thánh đã hiện về!
Tuy hầu bậc thánh nhưng không khí buổi hầu đồng thường náo nhiệt vui tươi chứ không quá đỗi nghiêm trang tĩnh lặng. Khi về trần, thánh thần thường ban lộc, giải đoán quẻ, chữa bệnh, trả lời thỉnh cầu của người tới dâng lễ, thường là về đường công danh, tiền tài hay nhân duyên. Sau vấn hầu, ông đồng bà đồng lại trở về trạng thái bình thường như cũ.
Với trạng thái ngây ngất, hành xử khác ngày thường của ông đồng bà đồng mỗi khi lên đồng, đương nhiên có thể coi đây là đặc trưng xuất hồn nhập hồn của Shaman giáo. Điểm thú vị là hầu đồng cho phép việc xuất hồn nhập hồn nhiều lần, tức là thông qua thân xác con người, các vị thần hư vô bào ảnh được sống lại một lần nữa cuộc đời nhân thế của họ. Ký ức tập thể và lịch sử chung của một cộng đồng về những người có công ơn được ghi nhớ bằng lời truyền miệng, cử chỉ, động tác, lặp đi lặp lại dần dà thành nghi lễ. Thời gian vì thế không còn gói gọn trong những tính đếm về tháng năm và mùa nữa, mà liên tục được tái hiện trong một dòng chảy trộn lẫn quá khứ và hiện tại. Vĩnh cửu chính là ngay đây, bây giờ, khi hai cái nhìn thiêng và phàm chạm nhau: thần thánh ngắm nhìn con người, còn con người mơ đến ngày hóa thành nhân-thần.
Hầu đồng, vì thế nói cho ta biết nhiều hơn những cuốn sách sử thông thường, bởi lịch sử không chỉ tồn tại trên trang giấy, lịch sử còn là truyền miệng, là thực hành văn hóa, là cả một đời sống nhiều khi khuất lấp của những cộng đồng người bình dị. Quá trình hóa thân thành thần thánh của các ông đồng bà đồng, theo một nhà nghiên cứu nhận xét, thì “Quá trình này là tổng thể được lựa chọn để sáng tạo nên một khuôn mẫu định hình có thể là sự thật, chính xác và hoàn chỉnh, cũng có thể không. Nó chỉ là một dạng ứng xử mang tính biểu tượng và quy ước, không nhằm tái hiện hiện thực mà là đưa ra một cái nhìn nghệ thuật về hiện thực”.
Hầu đồng còn là cái nhìn của nhóm người trung châu với nhóm người miền sơn cước thông qua việc thể hiện lại y phục, trang sức, nghề nghiệp (hái thuốc, dệt vải,…) cùng bộ điệu và lời ăn tiếng nói của họ. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận ước đoán theo chiều ngược lại, rằng có lẽ các vị thần sơn trang được biết đến đầu tiên, rồi mới kết hợp cùng hệ thống niềm tin sẵn có vào nhiên thần và nhân thần của dân cư vùng đồng bằng để tạo nên tín ngưỡng thờ Tam – Tứ Phủ.
Trong bối cảnh văn hóa hiện đại ngày nay, hầu đồng còn đặt ra nhiều chất vấn riêng khá ý nhị về căn tính của người lên đồng. Dân gian xưa thường hay mỉa mai “cái loại đồng bóng” để chỉ những người đàn bà tâm tính khác thường hay những người đàn ông nom yểu điệu thục nữ. Tất nhiên không phải ông đồng bà cốt nào cũng là queer, nhưng trước đây có khá nhiều người lựa chọn cửa phủ như một nơi che chở, một nơi để có thể tự do sống một đời sống khác. Ở đây, yếu tố Shaman giáo bắt đầu nhường chỗ cho một câu hỏi lớn hơn về căn tính, và việc bắt chước, lôi cuốn, mô phỏng thánh thần của ông đồng bà đồng khi làm nghi lễ đã trở thành phương thức tự thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Việc chuyển dịch đó liệu có làm mất đi tính thiêng trong nghi thức? Còn trạng thái ngây ngất của xuất hồn nhập hồn có thực tồn tại nữa hay không? Đó là những câu hỏi còn để ngỏ.