Mandala: Một lý giải về cấu trúc quyền lực của Chiêm Thành quốc – Kỳ 2

Tác giả Tường Vân
Mandala: Một lý giải về cấu trúc quyền lực của Chiêm Thành quốc – Kỳ 2

II. Mô hình Mandala của Chiêm Thành quốc

Trên khu vực địa lý nước Nam từng tồn tại các vương quốc cổ, trong đó được biết tới nhiều nhất là Chiêm Thành quốc thông qua các hoạt động chinh phạt, trao đổi thương mại và liên hôn với Đại Việt. Trước khi Tiên chúa Nguyễn Hoàng vào Nam làm trấn thủ Thuận Hóa (thế kỷ thứ 16) rồi dần dần mở rộng lãnh thổ vương quốc Đàng Trong, khu vực bao gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế ngày nay vốn là lãnh địa các tiểu quốc Chiêm Thành. 

Theo các ghi chép, có thể xác định ranh giới rộng nhất của Chiêm Thành bắt đầu từ phía nam Đèo Ngang cho tới lưu vực sông Đồng Nai, tức là hầu hết các tỉnh duyên hải phía Nam. Bởi lợi thế về địa lý nên Chiêm Thành sớm phát triển giao thương đường biển, sớm tiếp xúc với văn minh Ấn Độ cổ, từ đó tạo dựng nền văn hóa rực rỡ, bí ẩn mang đậm dấu ấn riêng. 

Tài liệu về Chiêm Thành quốc chủ yếu được khảo cứu từ ba nguồn sau: 

– Thứ nhất là các bia ký bằng chữ Chăm cổ hoặc bằng chữ Phạn. 

– Thứ hai là các thư tịch được viết bằng chữ Chăm được lưu trữ tại viện bảo tàng hoặc trong gia đình người Chăm. 

– Thứ ba là từ các cuốn sử biên niên của Trung Quốc và Việt Nam. 

Các nhà Chăm-pa học tiên phong đã dày công nghiên cứu Chiêm Thành từ cả ba nguồn tài liệu này, và những tranh luận đầu tiên về mô hình quyền lực Chiêm Thành xoay quanh tính xác thực của cuốn Biên niên sử Chăm-pa (Sakkarai Dak Rai Patao) – một cuốn thư tịch chép tay của người Chăm, thuật lại lịch sử tiểu quốc Panduranga. 

Ban đầu, vào năm 1890, nhà nghiên cứu E. Aymonier trong quá trình đối chiếu các dữ kiện trong cuốn Biên niên với dữ kiện trong sử ký Trung Hoa và Việt Nam đã đặt ra nghi vấn rằng Biên niên chỉ là câu chuyện huyền thoại hoang đường, bởi niên đại các triều vua trong Biên niên khác hoàn toàn với niên đại các vua cai trị Vijaya. Thế hệ các nhà nghiên cứu kế tiếp là G. Maspero, Dorohiem và Dohamide đều đi theo quan điểm của Aymonier khi coi Biên niên chỉ có giá trị huyền thoại và do đó coi Chiêm Thành quốc đi theo mô hình tập quyền giống chính quyền Trung Hoa hay Đại Việt. 

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu E. Durand ngay từ năm 1905 đã đưa ra quan điểm trái với quan điểm của Aymonier, rằng Biên niên ghi nhận các triều đại các vua phương Nam (tiểu quốc Panduranga) thay vì triều đại các vua phương Bắc tại Vijaya không có nghĩa là nó chỉ là huyền tích, dẫn tới giả thuyết có hai vương quốc Chiêm Thành định đô ở cả phương Bắc và phương Nam. 

Cũng cần nhắc lại ở đây bối cảnh lịch sử đã gây ảnh hưởng tới việc nghiên cứu tư liệu Chiêm Thành ra sao: Các bia ký cùng sách sử Việt Nam và Trung Hoa từ thế kỷ thứ 2 tới thế kỷ 15 cung cấp cái nhìn tương đối đầy đủ về sự hình thành và hưng vong của cộng đồng người Chăm. Tuy nhiên sau biến cố thành Vijaya thất thủ năm 1471, các bia ký biến mất. 

Hơn nữa, việc Chiêm Thành quốc chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Ấn không phải là một quá trình liên tục, hay có tính liền mạch. Bởi từ sau năm 1471, tiểu quốc Chiêm Thành phương Nam đã tự tách mình khỏi truyền thống Ấn giáo để xây dựng lại nền chính trị của mình dựa trên các tập quán địa phương và văn hóa Hồi giáo mới xâm nhập. Chính bởi lý do này, dấu vết của Ấn giáo tại tiểu quốc Panduranga gần như không còn: Các vị vua không coi mình là thần thánh, không sử dụng danh xưng bằng Phạn ngữ và không cho tạc tượng mình để người dân thờ phụng. 

Vì vậy, lịch sử Chiêm Thành, nhất là lịch sử tiểu quốc phương Nam, từ thế kỷ 15 trở đi ít được quan tâm đến, dù các thư tịch chép về thời kỳ này được lưu trữ nhiều trong các cộng đồng Chăm vùng Phan Rang, Phan Rí, trong đó có cuốn Biên niên. Không khó hiểu khi Aymonier và những nhà nghiên cứu theo quan điểm của ông nghi ngờ tính xác đáng của cuốn Biên niên, bởi ngay từ đầu họ đã chắc chắn với giả thuyết chỉ có vương quốc Chiêm Thành với một triều đình duy nhất tại thành Vijaya. 

Đào sâu thêm giả thuyết mà E. Durand đưa ra, tới năm 1987, nhà nghiên cứu người Chăm Po Dharma tiến hành nghiên cứu cuốn Biên niên và kết luận rằng cuốn thư tịch này có giá trị lịch sử trong việc ghi chép lại các triều đại vua phương Nam. Dựa trên kết luận đó, Po Dharma lập luận rằng trên thực tế tồn tại hai tiểu quốc Vijaya và Panduranga. 

Kết hợp với các nghiên cứu quốc tế về mô hình Mandala, những năm sau đó, Po Dharma tiếp tục phát triển thêm lập luận của mình và khẳng định Chiêm Thành quốc theo Mandala, bao gồm năm tiểu quốc là Indrapura (thuộc Quảng Bình, Quảng Trị), Amaravati (thuộc Thừa Thiên, Quảng Nam), Vijaya (thuộc Quảng Ngãi, Bình Định), Kauthara (thuộc Phú Yên, Khánh Hòa) và Panduranga (thuộc Ninh Thuận, Bình Thuận). Trong đó có một tiểu quốc giữ vai trò trung tâm, là Amaravati trước thế kỷ thứ 10 và Vijaya từ thế kỷ thứ 10 đến 15. Người đứng đầu khu vực trung tâm này xưng là Rajadhiraja (vua của các vua), thống lĩnh toàn bộ các tiểu quốc còn lại. 

Lập luận của Po Dharma được chấp nhận rộng rãi trong giới nghiên cứu Chăm-pa, nên hiện tại có thể coi Chiêm Thành quốc là một Mandala. Với nguồn sử liệu và các di chỉ còn lại, vấn đề tổ chức nội bộ và giao lưu giữa các tiểu quốc Mandala Chiêm Thành cũng nhận được nhiều mối quan tâm từ các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. 

Một trong những nghiên cứu sớm nhất về cách thức tổ chức của tiểu quốc Chiêm Thành là nghiên cứu của Trần Kỳ Phương về tiểu quốc Amaravati. Theo ông, xuất phát từ vũ trụ quan Ấn giáo, sự hình thành của mỗi tiểu quốc đều dựa trên một ngọn núi thiêng và một dòng sông, tượng trưng cho cặp vợ chồng thần thánh Shiva và Ganga. Dọc theo ngọn núi và dòng sông, các tiểu quốc xây dựng ba khu vực thiết yếu nhất là cảng thị bên sông, hoàng thành của hoàng gia và trung tâm tôn giáo. Mô hình này được thể hiện tại tiểu quốc Amaravati như sau:

– Ngọn núi thiêng là Mahaparvata (núi Răng Mèo);

– Dòng sông thiêng là sông Ganga (sông Thu Bồn);

– Cảng thị là Đại Chiêm Hải Khẩu (cảng Cửa Đại, Hội An);

– Hoàng thành là Simhapura tức Thành phố Sư Tử (Trà Kiệu);

– Trung tâm tôn giáo là Srisanabhadresvara (Mỹ Sơn).

Nhà nghiên cứu Kỳ Phương cũng cho rằng, vì mô hình tổ chức của các tiểu quốc luôn gắn liền với cảng thị ven biển, ven sông, nên trong quá trình giao thương, có thể các tiểu quốc Mandala Chiêm Thành sử dụng phương thức trao đổi ven sông (riverine exchange network). Đây là phương thức do nhà nghiên cứu B. Bronson đề xuất, theo đó hệ thống trao đổi này đặt vùng duyên hải làm cơ sở cho một khu vực thương mại thường nằm ngay cửa sông hoặc cửa biển gần kề. Hàng hóa trao đổi qua vùng thương mại này rất phong phú bởi đến từ nguồn trong nước lẫn nước ngoài, từ miền xuôi lên miền thượng và theo chiều ngược lại. 

Khi đặt sông Thu Bồn vào phương thức trao đổi này, có thể thấy từng tồn tại nhiều khu chợ sầm uất dọc theo dòng sông đóng vai trò là nơi trung chuyển hàng hóa giữa các miền, mà hoạt động giao thương sôi động đã đi hẳn vào lời ăn tiếng nói dân gian: 

Ai về nhắn với nậu nguồn 
Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên

Ngoài sông Thu Bồn, trong nghiên cứu của Đỗ Trường Giang, sông Côn chảy qua tỉnh Bình Định, đổ ra biển thông qua đầm Thị Nại cũng đi qua một thương cảng lớn, do đó đóng vai trò then chốt trong cơ cấu tổ chức của tiểu quốc Vijaya trước đây trong việc nối kết vùng đồng bằng trù phú với cao nguyên miền Trung. Chính những cảng thị quan trọng của Chiêm Thành quốc đã thúc đẩy sự lớn mạnh của thương nghiệp Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, mà sự phồn thịnh của các cảng Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam), Nước Mặn (Quy Nhơn), Cửa Hàn (Đà Nẵng) là một trong những dấu chỉ còn tới ngày nay.  

Kết luận

Từ một biểu tượng tôn giáo, thông qua các công trình nghiên cứu quốc tế về lịch sử và nhân học vào thập niên 80, Mandala được mô hình hóa thành cấu trúc quyền lực thường gặp ở các cộng đồng người Đông Nam Á. Mô hình Mandala đã góp phần lý giải những nghi vấn xoay quanh Chiêm Thành quốc sau biến cố năm 1471 tại Vijaya, đồng thời soi sáng những khoảng tối trong lịch sử những vương quốc vốn chỉ được biết đến nhiều nhất thông qua sử ký Trung Hoa và Việt Nam. 

Không chỉ có vậy, những hiểu biết sâu sắc về cơ cấu chính trị và hoạt động giao thương giữa các tiểu quốc Mandala Chiêm Thành còn đưa ra một hướng tiếp cận toàn diện hơn về chính quyền xứ Đàng Trong trong quá trình bành trướng lãnh thổ, cùng mối quan hệ Việt – Chăm thăng trầm xuyên suốt chiều dài lịch sử. Đó là một câu chuyện dài được kể lại bằng máu và nước mắt từ những lần xung đột giữa các vương triều, bằng chiến công của những con người mà giờ đây tên tuổi của họ chỉ có gió và rêu phong nơi đền đài đổ nát còn thì thầm nhắc tới. 

Nhưng dẫu dài tới đâu, chúng ta cũng không được quên lãng câu chuyện ấy, câu chuyện về một dải đất nối liền nhau cùng nguyện ước sống chung trong cảnh thái hòa. 

Tác Giả Tường Vân
Thiết Kế Trần Văn Hậu

Chia sẻ câu chuyện này
Share