Một đội lính tuần của chúa Nguyễn ở phía Nam sông Gianh bất ngờ bị tập kích. Trong những tháng đầu năm 1655, quân Trịnh đồn trú ở trấn Nghệ An và châu Bắc Bố Chính thường tung ra những cuộc tấn công quấy rối như vậy về phía Nam sông Gianh. Bỗng nhiên, từ trong bụi rậm, lại có một toán lính Nguyễn xông ra đánh úp quân Trịnh. Bị tập kích bất ngờ, quân Trịnh phải rút lui.
Trận địa dụ địch này do tướng trấn thủ châu Nam Bố Chính của bên Nguyễn là Phù Dương bày bố. Phù Dương mới đến trấn nhậm châu này từ năm trước. Nhưng bên kia sông, đối thủ của ông lại là một danh tướng có nhiều duyên nợ với Đàng Trong.
Tiến quận công Lê Văn Hiểu (1601 – 1654) là một trong những viên tướng tham gia đại chiến Trường Dục năm 1648. Lê Văn Hiểu được chúa Trịnh ban cho “quốc tính” nên còn có tên là Trịnh Đào. Điều này cho thấy sự sủng ái của chúa Trịnh đối với ông ta. Trong trận đại chiến Trường Dục, khi một bộ phận lớn quân Trịnh bị bao vây tiêu diệt ở phía Nam sông Nhật Lệ, Lê Văn Hiểu nhanh nhẹn đưa quân của mình rút lui và thoát được về Đàng Ngoài.
Chúa Trịnh Tráng đã bổ nhiệm Lê Văn Hiểu coi Tả Trấn quân doanh, chỉ huy một vạn quân đóng đồn ở Hà Trung; đồng thời bổ nhiệm Đông quận công Lê Hữu Đức coi Hữu Trấn quân doanh, chỉ huy 5000 quân đóng ở Hoành Sơn, và cho Phạm Tất Toàn làm thủ tướng châu Bắc Bố Chính, đóng quân ở Ba Đồn ngay phía bắc sông Gianh. Từ trấn doanh Nghệ An thẳng tới sông Gianh, quân Trịnh cũng bố trí một phòng tuyến mạnh để chống cự quân Nguyễn.
Bảy năm trôi qua kể từ thất bại đau đớn năm 1648. Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan của Nam Hà đã qua đời ngay sau đại chiến. Vị thế tử trẻ Nguyễn Phước Tần lên nối cơ nghiệp Đàng Trong cũng đã bảy năm. Giờ đây Lê Văn Hiểu muốn thăm dò thực lực quân Nguyễn. Lê Văn Hiểu bắt đầu tung các đợt lính “biệt kích” xuống phía Nam sông Gianh, chặn đánh và bắt giữ lính tuần của bên Nguyễn. Để đáp trả lại, thủ tướng châu Nam Bố Chính của chúa Nguyễn là Phù Dương cũng tổ chức những đội phục kích hòng nhử quân biệt kích Trịnh. Cuộc chạm trán mà ta vừa thấy chính là một trong số những lần đối đầu như thế.
Cách đó hơn 100 cây số, Lê Văn Hiểu nhận được báo cáo về động thái phản kích của quân Nguyễn. Lê Văn Hiểu cũng dò thám biết được tính cách nóng nảy của Phù Dương – đối thủ của mình. Ông ta ngay lập tức lên một kế hoạch đối phó.
Phù Dương tính tình như thế. Nếu ta sai quân đi bắt lính tuần của hắn lúc ban ngày, hắn ắt sẽ cất đại quân ra giao chiến với ta. Thắng bại chưa thể biết được. Chi bằng lập mưu bắt lén.
Lê Văn Hiểu tung ra hai cánh quân. Cánh thứ nhất do các chỉ huy Thao Giang, Lộc Tài và Thự vệ Nghiêm Kiều lãnh đạo. Nhân lúc giờ Dậu (khoảng 5 giờ chiều đến 7 giờ tối), cánh quân này theo hạ đạo vượt sông Gianh. Họ vượt qua An Náu, rồi từ đó vòng ngược lên phía Bắc, bắt lính tuần của quân Nguyễn từ An Náu tới Thuận Cô, Đá Dĩa, Bồ Khê và Thanh Hà. Quân tuần bên Nguyễn bị bắt sạch, không một ai chạy thoát.
Đến canh tư (khoảng 1 – 3 giờ sáng), đến lượt cánh quân thứ hai của Trịnh xuất phát. Cánh quân này do Tham đốc Minh Lãng và Thự vệ Nghiêm Trung chỉ huy. Họ theo đường thượng đạo vượt sông Gianh, đánh bắt lính tuần của quân Nguyễn từ tuần Ròn tới núi Lệ Đệ.
Núi Lệ Đệ nằm chắn ở phía Nam sông Gianh. Vượt sông Gianh có hai con đường tiến vào nam. Đường thượng đạo xuống trang Điển Phúc, đường hạ đạo vượt đèo Lý Hòa. Quân Trịnh đi đường hạ đạo vô cùng bí mật, nhưng cánh quân tiến công thượng đạo thì rất phô trương. Lính tuần ở Lệ Đệ nghe tin có quân xâm nhập, đã sớm phi báo cho Trấn thủ Phù Dương đem quân tiếp ứng.
Phù Dương tiến quân tới phía đông tuần Mục Dưỡng, phía Nam núi Lệ Đệ, thì gặp một người dân ở Cao Trang chạy tới báo tin: quân Trịnh đã rời thượng đạo chuyển xuống hạ đạo, để đánh cắt sau lưng Phù Dương.
Quân Bắc đã bắt người ở các xứ hạ đạo. Từ Thanh Hà đến An Náu chẳng còn ai. Nay quân giặc ở thượng đạo đã chuyển xuống hạ đạo. Minh công không nên tiến quân ra Lệ Đệ. Nên theo đường tuần Hạc Hải kéo xuống, đánh phá quân giặc, để chúng khỏi vào được trong thành thì khó công kích.
Phù Dương trọng thưởng cho người đưa tin, rồi chia một cánh quân kéo về hướng tuần Hạc Hải để chặn đánh quân Trịnh, còn mình thì kéo về trấn doanh Bố Chính để tổ chức phòng thủ. Phù Dương không ngờ đó chính là kế sách của Lê Văn Hiểu.
Ở tuần Lệ Đệ, các tướng của Nam Hà là Triều Tài, Văn Lộc đã cho quân mai phục sẵn. Tướng Trịnh là Tham đốc Minh Lãng, Thự vệ Nghiêm Trung dẫn quân tấn công. Hai bên hỗn chiến một lúc lâu. Triều Tài và Văn Lộc bị áp đảo về quân số, không có viện binh, cuối cùng thua trận, phải bỏ chạy về tuần Mục Dưỡng. Quân Trịnh bắt được nhiều khí giới mà quân Nguyễn bỏ lại, rồi đắc thắng lui về bên kia sông Gianh.
Thất bại này tới tai chúa Hiền Nguyễn Phước Tần. Vị chúa trẻ 36 tuổi là một người dũng cảm và có tài thao lược. Khi còn là Thế tử, Nguyễn Phước Tần đã đích thân chỉ huy binh thuyền đánh bại đội chiến hạm của Công ty Đông Ấn Hà Lan. Ông cũng là tổng chỉ huy quân đội đại phá quân Trịnh trong trận đại chiến Trường Dục năm 1648. Sau khi lên ngôi, năm 1653, nhân lúc vua Chiêm Thành là Bà Tấm xâm phạm Phú Yên, chúa Hiền sai quân phản kích, đánh bại Chiêm Thành và mở đất tới tận sông Phan Rang, lập ra dinh Thái Khang. Đối với vị chúa hùng lược và nhiều chiến công, hành động quấy rối của quân Trịnh khiến ông không thể ngồi yên.
Chúa Hiền đem việc quân Trịnh quấy rối ra bàn bạc. Ý kiến của các quan bất đồng. Có người xin cất quân đánh ra Bắc, có người bàn rằng chưa nên manh động. Chúa Hiền cũng chưa quyết được.
Kỳ thực, việc Bắc phạt quân Trịnh không phải là việc mới lạ. Các đời chúa trước đã hai lần cho quân Bắc phạt. Lần thứ nhất chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên đánh chiếm phía Nam châu Bố Chính, đưa phòng tuyến lên tận sông Gianh. Lần thứ hai chúa Thượng Nguyễn Phước Lan cho người tập kích trấn thủ Bắc Bố Chính của Trịnh là Nguyễn Khắc Liệt. Nhưng lần đó quân Nguyễn không chiếm đất mà rút quân về. Cho nên lần này chúa Hiền nghĩ tới việc tấn công đáp trả cũng không phải là việc lạ. Vấn đề nằm ở chỗ phải thực hiện như thế nào? Và giao cho ai thực hiện?
Trong lúc chúa Hiền đang trăn trở về việc này, thì đột nhiên có một ông già râu tóc bạc phơ xuất hiện. Ông ta sẽ nói gì? Và sự việc sẽ đi tới đâu?
Minh hoạ: Võ Minh Thảo Thiết kế và dàn trang: Trần Văn Hậu