Chuyện cái bánh chưng – Kỳ 2

Tác giả Phach Ho Nguyen
Chuyện cái bánh chưng – Kỳ 2

III. TỪ CHUYỆN BÁNH CHƯNG, LẠI NGHĨ ĐẾN BẢN CHẤT CỦA “VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG”.

Về bản chất, những thứ chúng ta gọi là văn hoá cổ truyền hoặc truyền thống, kỳ thực là những cung cách ăn ở sinh hoạt trong đời sống mà thôi. Nhưng những thứ này cũng không phải do một ông thần nào từ trên trời bay xuống vẽ ra (như Lĩnh Nam Chích Quái phán), mà được định hình từ những đặc điểm môi trường sống và xã hội.

Môi trường, xã hội thì luôn thay đổi, nên cung cách sinh hoạt, ăn ở, cùng những vật dụng đi theo đó cũng thay đổi theo thời gian. Chuyện một cái gì đó giữ nguyên bất di bất dịch trong hàng nghìn năm là chuyện không thể có. Cá biệt lắm thì chỉ có một số địa phương có hoàn cảnh đặc biệt, giúp trì hoãn những sự thay đổi trong một thời gian dài mà thôi. Tôi hình dung nơi đó phải cực kỳ biệt lập, kiểu như hải đảo trơ trọi ngoài biển chẳng hạn. Còn với những quốc gia nằm gần đường thương mại quốc, có nhiều nước láng giềng bao quanh, đi lại giao lưu buôn bán nhiều, kỹ thuật phát triển qua mỗi thế kỷ,… thì chuyện thay đổi diễn ra liên tục.

Ở Trung Quốc thì có câu “người phương Bắc đi ngựa, người phương Nam đi thuyền”. Đây không phải là do người ta hứng lên muốn đi như thế, mà do địa hình khác nhau nên văn hoá giao thông phải như vậy. 

Tương tự, Trung Quốc, Nhật BảnViệt Nam trong thời gian dài buộc phải sử dụng bảng khắc gỗ (in 1 trang giấy thì phải khắc 1 bảng khắc với toàn bộ nội dung của trang giấy ấy) không hẳn vì họ lạc hậu, mà vì đặc điểm chữ Hán có quá nhiều chữ cái, nên không thể ứng dụng kỹ thuật in di động của phương Tây (làm từng viên chữ cái rời, rồi tuỳ theo nội dung trang giấy muốn in mà ráp các viên ấy thành một bản in với nội dung tương ứng). Phải đợi đến khi nền in ấn của nhân loại phát triển đến những kỹ thuật tiên tiến hơn, người Tàu – Nhật – Việt mới có thể rời bỏ bảng khắc gỗ.

Ở Việt Nam ta, có rất nhiều món ăn, vật dụng, tưởng như là bản địa, kỳ thực là du nhập. Dễ thấy nhất trong ngày Tết là thịt kho Đông Pha (thịt kho Tàu) vốn xuất xứ từ Trung Quốc. Nhiều thực phẩm quen thuộc đến mức thẩm thấu mạnh vào văn hoá dân gian, nhưng thực chất lại là những thứ có nguồn gốc ngoại lai. Có thể kể điển hình có bắp, ớt, khoai lang, sắn, kỳ thực đều là những loại cây có nguồn gốc châu Mỹ. 

Về kiến trúc, kiến trúc nhà cửa hiện đại ở Cambodia và miền Nam Việt Nam có nhiều nét giống nhau. Xem các clip Youtuber đi Phnom Penh sẽ thấy cảm giác rất quen thuộc, với nhà cửa mang kiến trúc y như Sài Gòn thập niên 1960 – 1980. Ở vùng nông thôn, nhiều con đường, nhà cửa bên Cam cứ na ná như ở miền Tây. Thứ giúp ta nhận diện rõ nhất “đây là Cambodia” là mấy ngôi chùa, và mấy cái bảng hiệu viết chữ Cam mà thôi. 

Như vậy, hiện tượng văn hoá thay đổi hay giống nhau là một hiện tượng bình thường, thậm chí là lành mạnh nữa. Vì nó cho thấy cái xã hội đó, cộng đồng đó đang giao lưu với các xã hội/cộng đồng lân cận, để phát triển bản thân theo từng ngày, từng đời.

Ở thế kỷ trước, chúng ta bị ảnh hưởng quá mạnh bởi khái niệm chủ nghĩa dân tộc (cụ thể hình như là chủ nghĩa dân tộc văn hoá thì phải) từ phương Tây. Những cái tư tưởng (mà chính nó cũng ngoại lai) ấy phán rằng đất nước khác nhau thì văn hoá phải khác nhau. Đất nước có văn hoá nào thì cái văn hoá ấy phải là “truyền thống nghìn đời” bất di bất dịch. Nước này mà văn hoá có nét giống nước kia là nhục, là biểu hiện của đồng hoá, lai căng,… Nạn này đến nay nghe nói bên Hàn cũng còn. 

Rồi thử nghĩ mà xem, cứ cho kiến trúc cổ truyền của Việt Nam có nét tương đồng với Trung Quốc là do 1000 năm Bắc thuộc bị cưỡng bức đồng hoá đi. Thì xem cái clip quay cảnh đường quê, chợ xóm bên Cam, trừ mấy cái nhà sàn và chùa kiểu Cam ra, thì cũng kiểu nhà mái tôn ấy, kiểu đường ấy, cách bày hàng ăn vặt ấy, cái cây dù che cửa hàng chống nắng ấy, cách treo quần áo trong chợ ấy,… Nó cứ na ná miền Tây, vì sao vậy? Chẳng lẽ 20 năm rồi có ông Việt Nam nào cho đô la dụ dỗ dân Cam nhẹ dạ xây nhà xây chợ theo kiểu Việt hiện đại? Hay đơn giản chỉ là khí hậu, vật liệu giống nhau, thì tất yếu dẫn đến cách xây dựng như thế, bày trí như thế?

Ngoài ra còn có lối lập luận cho rằng dân Tây Nguyên, Tây Bắc kém phát triển hơn, cho nên văn hoá của họ hiện nay là văn hoá bảo lưu – không thay đổi – suốt 2000 – 3000 năm. Trong khi nhìn ảnh chụp trang phục người Tây Nguyên thời Pháp thuộc, tôi đã thấy khác rất nhiều trang phục truyền thống của chính họ bây giờ. 

Bánh Chưng sáng tạo làm từ gạo nếp Tú Lệ và gấc

IV. VẬY CHÚNG TA NÊN LÀM GÌ VỚI VĂN HOÁ CỔ TRUYỀN?

Nói như trên không có nghĩa là chúng ta nên từ bỏ truyền thống. Có nhiều lí do để giữ gìn hoặc quan tâm đến nói:

Thứ nhất, dù muốn dù không, một phần định hình nên chúng ta cũng là từ quá khứ ấy. Nên không có chuyện ăn tí mì cay, uống tí trà sữa, chơi tí game Mỹ, Nhật thì tự nhiên ta sẽ có cách nghĩ như Hàn, logic như Nhật,… Thực tế, khi tiếp cận những yếu tố ngoại lai ấy, ta đều hiểu, nhìn nhận và diễn giải nó theo logic Việt Nam. Chuyện Nguyễn Du ngồi sửa truyện Kiều Trung Quốc từ logic biến thành phi logic cũng là một ví dụ điển hình. Nguyễn Du đọc nhiều sách Tàu nên ông nghĩ rằng mình hiểu hết văn hoá xã hội Tàu, nhưng kỳ thực là có nhiều vấn đề ổng không hiểu, hoặc hiểu sai. Vì đâu phải cái gì cũng được ghi trong sách, đặc biệt là những cái mà người ta cho là bình thường đến độ không đáng ghi (vd như cung cách sinh hoạt). Như vậy, để hiểu chính mình, ta phải tìm hiểu văn hoá truyền thống.

Thứ hai, về khía cạnh kinh tế, văn hoá truyền thống cũng là một nguồn thu. Khi khách du lịch đến thăm nước nào đó, họ đương nhiên muốn thử hoà vào văn hoá bản địa, với cách ăn ở đi đứng suy nghĩ mới lạ so với văn hoá của họ. Chứ chẳng ai hơi đâu đi 10 000 km để được ăn ở đi lại sinh hoạt y chang mình vẫn làm ở nhà.

Tuy vậy, khi nói câu “gìn giữ văn hoá truyền thống”, hay “kinh tế” hơn là “gìn giữ làng nghề cổ truyền”. Ta phải hiểu bản chất văn hoá là gì, hiểu rằng sự thay đổi văn hoá qua thời gian là không thể tránh khỏi. Hiểu như vậy thì mới định hình được hướng phát triển đúng đắn. 

Qua hàng thế kỷ, cái chén, cái ly còn biến đổi. Bánh chưng đậu xanh thịt mỡ, tranh Đông Hồ, bán hoa mùa Tết,… Nó đều là những nét văn hoá của giai đoạn trước (xưa đến đâu thì phải có luận văn nghiên cứu), và chính nó cũng là sự cải biên, thay đổi từ thời đại trước đó (thế kỷ 21 về trước) để phù hợp với đời sống của những thập kỷ vừa rồi (thuộc thế kỷ 20). Nên như mọi công cụ phục vụ xã hội khác, để được duy trì và tiêu thụ trong xã hội mới/thời đại mới, nó phải biết cách tiếp tục cải tiến chính mình trong khi vẫn gìn giữ những cốt lõi của nó. Hiểu được cốt lõi (ví dụ như đặc điểm các thành phần ý nghĩa cái bánh chưng mà tôi vừa nói) thì mới biết cái gì cần giữ, cái gì có thể sửa đổi, tuỳ biến, và nên sửa như thế nào. Như thế thì nó mới có thể tồn tại và phát triển được. 

Chứ cứ cắm đầu vẽ tranh lợn đàn, nấu bánh nhân đậu xanh thịt ba chỉ, thì hỏi sao làng nghề ế ẩm. Rồi ta lại than rằng vì sao văn hoá cổ truyền Tàu, Nhật giàu đẹp phong phú thế. Nhưng có ai nghĩ rằng chắc gì cái lẩu cay Tứ Xuyên của Tàu, zoni của Nhật cách đây 200 – 300 năm đã được như họ đang ăn bây giờ? Chính cụ Fujiko (tác giả Doraemon) khi viết truyện về thời Mạc Phủ còn cho thấy thời đó không có cơm mà ăn, đào đâu ra zoni?

Chuyện phát triển cái bánh chưng coi như đã chốt. Đó giờ chưa từng thấy món “cổ truyền” nào mà người xưa phân tích có tâm và rạch ròi, dễ ứng dụng như thế. Chỉ còn coi xem có người tài nào đủ khả năng phát triển nó cho phù hợp với thị hiếu ngày nay hay không thôi.

Còn những tranh Đông Hồ, bán hoa Tết, làng nghề cổ truyền,… muốn phát triển thì người trong nghề phải tập hợp lại cùng suy nghĩ và tìm giải pháp (chung quy vẫn là phân loại ra những đặc điểm cốt lõi và những đặc điểm có thể thay đổi, phát triển của sản phẩm mà thôi). Theo tôi những vấn đề này mới thực sự khó gấp nhiều lần chuyện cái bánh chưng.

Hình ảnh chợ hoa xưa và nay

Tác Giả Phach Ho Nguyen
Thiết Kế Trần Văn Hậu

Chia sẻ câu chuyện này
Share