Phạm Công Thế người làng Hoàng Xá huyện Đông Quan, đỗ Tiến sĩ năm 1727, lúc mới 23 tuổi, làm quan Đông các Hiệu thư. Lúc lâm hình, các quan trách Thế:
– Nhà ngươi là người trong khoa giáp, làm sao lại đi theo bọn phản nghịch?
Công Thế cười, bảo:
– Danh phận không sáng tỏ đã lâu rồi, còn phân biệt thế nào là thuận với nghịch nữa?
Nói rồi, liền vươn cổ chịu chém. Bấy giờ là tháng Mười năm Mậu Ngọ [1738].
Ba hoàng thân trốn vào miền Thanh Hóa ít lâu, thì Lê Duy Chúc và Lê Duy Quy đều ốm chết. Chỉ có hoàng thân Lê Duy Mật dời sang các huyện Quảng Bình, Cẩm Thủy của trấn Thanh Hoa, kêu gọi các nơi khởi binh hưởng ứng phò Lê. Viên hoạn quan Hoàng theo hầu cũng tự xưng là Thượng tướng, Minh quận công, tục gọi ông ta là quận Mèo. Tù trưởng và phụ đạo ở các sách vùng Quảng Bình, Cổ Lũng đều thuận tình hưởng ứng, hẹn ngày hành sự. Lê Duy Mật bèn chọn mùa xuân năm sau tiến quân vào đánh Vạn Lại – An Trường.
Chúa Trịnh Giang không lấy đó làm lo, mà lại càng thích dạo chơi. Chúa cho làm nhiều cung quán ở bốn trấn. Những nơi danh sơn, cổ tự, chúa Trịnh đều tìm tới. Viên hoạn quan thân tín là Bào quận công Hoàng Công Phụ quê ở xã Quế Trạo huyện Quế Dương. Chúa Trịnh Giang chọn chỗ đó làm hành cung, thường đóng ở đấy. Có khi bất thần về cung, rồi đi tuần phương Bắc.
Trịnh Giang lúc trước vu cho Vĩnh Khánh đế tư thông với Kỳ Viên phi Đặng thị. Đặng thị người xã Trà Đổng, huyện Tiên Du, trấn Kinh Bắc, là sủng phi của chúa Trịnh Cương. Việc tư thông đó có thật hay không, người đời không được biết. Nhưng chính Trịnh Giang cũng tư thông với Kỳ Viên phi. Việc này bị Thái phi Vũ thị phát giác ra. Thái phi bắt Đặng thị phải tự tử.
Một hôm, chúa Trịnh Giang bị sét đánh, suýt chết. Từ đó, Trịnh Giang có bệnh “kinh quý”. Hễ nghe tiếng sấm là lại sợ hãi. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ bèn nói:
– Đấy là vì dâm dục nên bị ác báo. Bây giờ chỉ có cách đào lỗ xuống đất, làm nhà mà ở để tránh sấm sét, họa ra có thể thoát tai nạn.