Tới thế kỷ 15, theo bước chân của các giáo sĩ phương Tây trên con đường truyền giáo, pháp lam châu Âu cập ngõ Quảng Đông và được phường thợ nơi đây nhiệt tình tiếp nhận kỹ thuật chế tạo. Sản phẩm pháp lam làm theo phong cách ngoại quốc mới mẻ này ngoài tên gọi họa pháp lang còn có tên Dương từ (洋 瓷), tức đồ tráng men Tây dương, chia thành hai dòng chính: dòng ngự dụng có xưởng sản xuất ngay trong hoàng cung, còn dòng dân dụng đặt tại Tô Châu, Dương Châu và Quảng Đông.
Là một trong những nơi tiếp nhận họa pháp lam châu Âu đầu tiên, Quảng Đông dần phát triển cả về mặt kỹ thuật lẫn mỹ thuật tạo hình, trở thành nơi xuất khẩu số lượng lớn họa pháp lam sang các nước phương Tây vào thế kỷ 18. Bên cạnh những mô-típ Trung Hoa quen thuộc như sơn thủy, cỏ hoa, điển tích điển cố, pháp lam Quảng Đông còn áp dụng thêm kỹ thuật đánh bóng cùng phối cảnh để đặc tả cảnh trí và nhân vật sao cho phù hợp với nhãn quan người châu Âu. Đây cũng không phải điều hiếm lạ bởi pháp lam Nhật Bản cũng được sản xuất phỏng theo kỹ thuật Trung Hoa rồi xuất khẩu ngược lại vào chính thị trường quốc gia này, tạo tiếng vang lớn, rất được nhiều người yêu thích.
Pháp lam Quảng Đông ngoài xuất khẩu tới các nước châu Âu còn mở rộng thị trường trong khu vực, đặc biệt là ở Việt Nam, với chứng tích là hàng loạt món pháp lam được xác định từng thuộc sở hữu của các gia đình quý tộc và thương nhân tại Huế và Hội An ở thời điểm tương đối sớm – ngay trước khi nhà Nguyễn trung hưng gia tộc. Những món pháp lam này chủ yếu được dùng làm đồ tế tự hoặc trang trí nhà cửa nhằm thể hiện địa vị của chủ nhân.
Khi triều Nguyễn khôi phục sơn hà (1802), tình hình chính sự ổn định, nhu cầu tiêu dùng của hoàng gia trở nên rộng rãi hơn, trong đó có pháp lam là sản phẩm được ưa chuộng nhất thời bấy giờ nên vào năm 1827, vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ lập xưởng chế tác pháp lam (pháp lam tượng cục) đặt ngay tại Kinh thành Huế, kén thợ giỏi từng học nghề bên Quảng Đông về làm.
Tuy nhiên, theo ghi chép của linh mục Cadière thì trước đó một năm, vua Minh Mạng đã ban tặng cho hai sĩ quan Pháp là Vannier và Chaigneau một số món pháp lam như sau: “Sáu bình tráng men chế tạo trong Đại Nội gồm bốn bình cắm hoa bán bích, một bình để cắm hoa hình vuông và một bình để cắm hoa hình con ngỗng”, chứng tỏ rằng hoạt động chế tác pháp lam tại hoàng cung đã diễn ra một thời gian và đem lại kết quả khá tốt trước khi chính thức thành lập tượng cục.
Theo suy luận của một số nhà nghiên cứu, sở dĩ thợ thủ công Việt Nam học nghề tại Quảng Đông (chuyên làm họa pháp lam) thay vì Bắc Kinh (chuyên làm pháp lam theo lối kháp ti), một phần bởi vị trí địa lý gần gũi hơn, một phần bởi mối quan hệ sâu sắc được thiết lập với nghệ nhân Quảng Đông thời vua Gia Long khi ngài tuyển mộ những người thợ tay nghề cao đến Huế mở xưởng sản xuất gạch ngói tráng men đa sắc. Ngoài Huế, pháp lam tượng cục có thể còn đặt thêm hai cơ sở tại Ái Tử (Quảng Trị) và Đồng Hới (Quảng Bình) nhằm phục vụ nhu cầu trọng yếu chốn cung đình, song rất khó để xác minh bởi dấu vết của các xưởng sản xuất này đã hoàn toàn biến mất kể từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam.
Dù đã có thể tự sản xuất pháp lam ngay trong nước, nhưng trên thực tế, các vị vua nhà Nguyễn vẫn chi một khoản không nhỏ để đặt các món pháp lam ký kiểu từ Trung Quốc, bởi trong giai đoạn đầu lập xưởng, số lượng nhân công thưa thớt, tay nghề chưa vững khiến cho thành phẩm làm ra không đạt yêu cầu về chất lượng. Phải mất rất nhiều năm sau, tới thời vua Thiệu Trị và Tự Đức thì pháp lam Huế mới đạt tới trình độ tinh xảo, tiếc thay sự kiện Kinh thành thất thủ năm 1885 đã khiến cho hoạt động sản xuất trong nước bị đình đốn, nghệ nhân Quảng Đông phải hồi hương dẫn đến kỹ thuật chế tác pháp lam vừa khởi sắc không được bao lâu đã rơi vào cảnh tàn lụi.
Do đó, dưới triều vua Đồng Khánh, hàng loạt đồ gốm sứ và pháp lam ký kiểu đã được đặt hàng để tái thiết lại cung điện và miếu thờ tổ tông. Đồng thời trong giai đoạn này, nhà vua cũng hết sức quan tâm đến việc phục hồi lại các xưởng sản xuất, trong đó có pháp lam tượng cục, nhưng đáng tiếc không thể vực dậy được do bí quyết làm nghề đã thất truyền và ngân khố hoàng gia eo hẹp.
Như vậy, có thể xác định rõ ràng pháp lam Huế chia làm hai loại, một là loại địa phương tự sản xuất, hai là loại đặt hàng từ các xưởng bên Trung Quốc. Lại dựa vào lịch sử du nhập pháp lam vào Việt Nam, cũng khẳng định được phong cách chủ đạo của pháp lam cung đình Huế là họa pháp lam Quảng Đông.