Võ lâm Việt Nam: Tây Sơn Bình Định – Kỳ 1: Quyền cước định thiên hạ

Tác giả Phạm Vĩnh Lộc
Võ lâm Việt Nam: Tây Sơn Bình Định – Kỳ 1: Quyền cước định thiên hạ

Võ cổ truyền Bình Định là sự kết tinh và hòa quyện cao độ giữa các dòng võ, môn võ, phái võ khác nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp, hun đúc nên dòng võ đậm nét tinh hoa của dân tộc nhưng mang sự riêng biệt của “miền đất võ”.

Vào năm 1471, trong một chiến dịch quân sự cực kỳ quy mô, với “bách vạn sư đồ“, Lê Thánh Tông đã mở rộng cương vực Đại Việt đến vùng đất ngày nay là tỉnh Bình Định. Phủ Hoài Nhơn được thành lập với 3 huyện: Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn. 

Để lên kế hoạch định cư lâu dài, vua Lê Thánh Tông đã cử các võ quan có trình độ võ nghệ cao cường đến xứ sở mới mẻ này. Nhiệm vụ của họ không chỉ đơn thuần là bảo đảm an ninh cho vùng cương thổ mới, mà còn truyền thụ võ nghệ cho người dân. Đơn giản vì càng nhiều người biết quyền cước, khả năng sinh tồn của cộng đồng ở đất lạ càng cao.

Trước thời Tây Sơn, võ Bình Định còn nhiều nét sơ khai. Các động tác chủ yếu có nguồn gốc từ cách người dân lao động và sử dụng công cụ làm việc hằng ngày cho mục đích tự vệ. Võ xứ này là tổng hòa của nhiều dòng võ khác nhau, từ võ của dân bản địa, cho tới võ từ ngoài Bắc đi vào. Các võ sư Bình Định đã chắt lọc các đòn thế hiệu quả và phù hợp để bổ sung vào môn phái.

Thời điểm đỉnh cao của võ Bình Định là giai đoạn anh em Tây Sơn nổi dậy. Bấy giờ, võ Bình Định được ứng dụng trên nhiều chiến trường khác nhau từ Nam tới Bắc, tiêu diệt giặc ngoại xâm với quy mô rất lớn. Đúng nghĩa là quyền cước định thiên hạ!

Sau thời Tây Sơn, dù bấy giờ nhà Nguyễn đã cai trị và có chính sách hạn chế , “võ vườn” Bình Định vẫn được bí mật truyền dạy trong các nhà chùa hoặc các bìa rừng, vẫn được nhiều người tâm huyết nghiên cứu, sưu tầm, viết sách lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau.

Vùng đất mới Quy Nhơn là nơi võ lâm hội tụ

Ba đặc trưng võ Bình Định

Mang tính quần chúng và tính chiến đấu ​

Việc luyện rèn võ nghệ được xem như niềm tự hào của các gia đình và dòng họ ở đất Bình Định. Nhiều nơi cả làng cùng học võ để giữ thân, giữ nhà, giữ của và là tiêu chí được người khác thán phục, kính nể. Chính vì vậy nên không chỉ có đấng nam nhi, mà ngay cả phái yếu cũng theo đời cung, kiếm để khi “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh“.

Bà Nguyễn Thị Nhạc ở Tây Sơn chia sẻ rằng, thời bà 6 – 7 tuổi, trẻ em ở đây đều được học võ. Cùng với việc học văn hóa, mỗi chiều bà cùng bạn bè đều nai nịt chỉnh tề dắt nhau đi học “đấm đá”. Với con gái nơi này, việc học võ như một thói quen không thể thiếu. Nó tồn tại hàng ngày quan trọng như việc uống nước, ăn cơm.

 “Những chiều cùng bạn bè tập luyện, tập nghỉ mệt, hết mệt lại tập… là những kỷ niệm và ký ức đẹp đọng mãi trong trái tim tôi. Tôi nhớ những tiếng cười đùa trong vắt…“, bà Nhạc kể.

Võ Bình Định được sử dụng như giấy thông hành, là một tiêu chuẩn quan trọng để trở thành nghĩa quân Tây Sơn. Nhiều đội quân sở hữu binh hùng, tướng mạnh nhưng đều bị quân Tây Sơn nghiền nát, mà vũ khí lúc bấy giờ là võ thuật phối hợp cùng các binh khí sở trường của tổ tiên truyền lại.

Thường sử dụng bộ ngựa Túc bất ly địa

Túc bất ly địa còn có nghĩa là chân đá ra đòn rất nguy hiểm, chủ yếu nhắm vào bộ hạ, vùng ngực, bụng và hai bên sườn của đối phương. Bộ ngựa này thường di chuyển theo đồ hình bát quái, quyền bông trực chỉ (tay thường đánh thẳng) và vận hành theo thuyết âm – dương ngũ hành.

Bộ ngựa di chuyển một cách vững chắc, khi đứng thì như hòn đá tảng, lúc di chuyển thì lại cơ động như chiếc lá bay.

Còn về phần các chiêu thức, đòn thế mang tính đặc trưng của võ cổ truyền Bình Định thì có rất nhiều, nhưng rõ nét hơn hết phải đề cập đến các bộ pháp: 

– Bộ đội: thường dùng ngựa cực nhạy và sử dụng cả vai lẫn đầu để nhanh chóng áp sát đội vào vùng hạ bộ đối phương.

– Bộ hốt: thường dùng thế đánh lừa đối phương và dùng ngựa cực nhanh, chính xác tiếp cận hốt đối phương quăng ra xa.

– Bộ liệng: chủ yếu dùng bộ ngựa phối hợp với bộ tay gài ngựa và đánh đối phương té nhào xuống đất..

Đây là một số đòn thế cực kỳ nguy hiểm, có tính quyết định nhằm nhanh chóng triệt hạ hay quật ngã đối phương cao, to, khỏe hơn mình gấp nhiều lần trong nháy mắt.

Có lời thiệu

Nếu bạn thắc mắc về các bí kíp võ công có tồn tại hay không thì thật ra là có. Mỗi bài quyền cước và binh khí của võ cổ truyền Bình Định đều có lời thiệu cụ thể. Lời thiệu hiểu đơn giản là “hướng dẫn sử dụng” vậy. Từng bài võ đều có tên gọi dành cho từng động tác và thế đánh. Đôi lúc có cả hình vẽ minh họa và phân tích cho chúng.

Bài thiệu thường được viết theo dạng văn xuôi ngắn, hoặc thể thơ, ca dao dân gian. Khi thi triển một chiêu thức, lỡ bạn có quên thì lời thiệu là thứ sẽ “nhắc” bạn nhớ được ngay đòn thế đó nên thực hiện ra sao.

Gần đây người ta phát hiện thêm được trên 100 bài võ ở các địa phương trong tỉnh, trong đó có hơn phân nửa có lời thiệu, được viết rất công phu, cẩn trọng, trên loại giấy cổ (giấy gió) bằng chữ Hán – Nôm. Đây chính là những tư liệu “giáo khoa” cực kỳ quý giá của tổ tiên để lại cho thế hệ mai sau khỏi thất truyền.

Một phóng viên hỏi  võ sư Lâm Ánh Ngọc về pho bí kíp điểm huyệt độc nhất vô nhị của dòng họ Lâm. Nữ võ chư cho biết đó là một cuốn sách về võ y do Linh Không Thiền Sư ở Ngũ Đài Sơn nghiên cứu và truyền lại hậu thế. Tổ tiên nhà họ Lâm may mắn được sở hữu pho bí kíp này, đến nay đã trên 300 năm.

Trong sách ghi rõ trên người có bao nhiêu tử huyệttiểu huyệt, ghi chú cặn kẽ thước tấc trên đồ hình. Những tử huyệt ghi trong bí kíp thật ra là để người chữa thương biết vùng chấn thương thuộc huyệt nào và biết phải dùng thuốc gì để điều trị. Tuy nhiên, nếu người luyện võ đạo đức kém nhưng lại biết rõ những tử huyệt trên thân người, trong lúc tức giận hay vì trả thù riêng mà đánh ngay tử huyệt đối thủ thì đó là giết người.

Vì vậy, bí kíp này chỉ được truyền dạy cho người trong nhà, mà phải là trai trưởng hoặc người con trai dày đức độ, chứ nữ nhi không được học vì sợ lan truyền ra ngoại tộc. Hiện bí kíp này được võ sư Lâm Ngọc Ánh, anh trai cô Năm nắm giữ và được ông áp dụng để chữa bệnh cứu người miễn phí.

 
Cuốn bí kíp tại nhà thờ đại võ sư Phan Thọ ở Tây Sơn, Bình Định

Nhạc võ Tây Sơn - Anh linh Tam Kiệt trở về

Đất Bình Định Tây Sơn hạ, xứ sở mang danh miền đất võ, quê hương của ba vị anh hùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, một buổi sớm giữa đông, lão võ sư Đinh Tuấn đã ngoại thất tuần, dắt đám môn sinh lội dọc mép sóng sông Côn đầy ắp phù sa, thong thả khỏa chân bên bến Trường Trầu man mác gió, nơi các thủ lĩnh xưa từng ngược đò lên miền Tây Sơn thượng, nhóm binh trong buổi đầu nổi dậy.

Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt ngày nay chính là khu gia trang của gia đình ba anh em ngày xưa.

Hai thập kỷ sau sự sụp đổ bi tráng của nhà Tây Sơn, những người dân đất võ chưa bao giờ dứt lòng ngưỡng vọng về triều vua cũ. Họ cùng nhau dựng lên một ngôi đình lớn ngay trên nền nhà xưa Tam Kiệt. Bên ngoài nói rằng để thờ thành hoàng làng, nhưng thực chất, ngôi đình là nơi hương khói cho vương triều anh hùng đã khuất kia. Hàng thế kỷ sau, những bà mẹ xứ võ vẫn đưa con vào giấc ngủ bằng câu ca khắc khoải:

Cây me cũ, bến trầu xưa
Dẫu không nên tình nghĩa, cũng đón đưa cho trọn niềm

Thời ẩn tích, các kỳ cúng tế nhà Tây Sơn ở đình Kiên Mỹ luôn tổ chức , phần khấn cáo bao giờ cũng chỉ là mật niệm, tức là niệm thầm. Cũng dễ hiểu, khi bạn đang sống dưới nhà Nguyễn, việc nhắc đến nhà Tây Sơn chắc chắn là trọng tội. Để tưởng vọng cựu triều, dân làng Kiên Mỹ lại mượn bản nhạc lễ cổ truyền Tam luân cửu chuyển trong mỗi dịp kỵ húy. Đó là cách thức hậu nhân vừa có thể bày tỏ chính kiến, lại vừa che giấu được thân phận một cách an toàn trong buổi loạn ly. 

Trải qua bao thế hệ nhạc công, vẫn những nhạc cụ ngũ cung truyền thống gồm: trống, kèn, chiêng, nhị, mõ, bạt…, nhưng ở mỗi thời kỳ, người chơi nhạc lễ lại thêm thắt, biến thể các khúc thức, tiết tấu, làm cho bản nhạc thêm dày dặn, sống động.

Hơn một thế kỷ sau, khi ông vua cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị, thì đình làng Kiên Mỹ mới được công khai thờ cúng ba vị anh hùng và đổi tên thành Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt. Từ đây, bài nhạc lễ trang nghiêm nơi đền, miếu dần được biến chuyển sang hình thức diễn tấu mới rộn ràng, khai mở. Số nhạc cụ trống trong dàn nhạc cũng được bổ sung từ một chiếc lên ba chiếc, sáu chiếc, chín chiếc rồi mười hai chiếc. Bài nhạc lễ Tam luân cửu chuyển vượt ra khỏi không gian mật niệm hồi tưởng, để đến với công chúng trong các dịp hội hè, lễ Tết. Từ nơi thờ tự bước ra sân khấu, nó trở thành bài diễn tấu mang tên Đả thập nhị cổ.

 

Nhạc võ Tây Sơn

Võ sư Đinh Tuấn nhớ lại:

Ở xứ võ Tây Sơn, khi thời kỳ che giấu thân phận đã qua, người dân luôn náo nức xem biểu diễn bài 12 trống, lý do rất đặc biệt: bản nhạc mà người nghệ sĩ biểu diễn tung hoành bên dàn trống, vận dụng cả tứ pháp và thế, bộ của võ thuật rất uyển chuyển, liên hoàn ấy không chỉ gợi lại hào khí một thời mà như còn vương vất hình hài của một môn võ đã thất truyền ngay trên quê hương của nó: môn Võ trống.

Vị võ sư già không quên lúc thiếu thời, khi còn thọ giáo ba vị võ sư nổi danh làng võ là Đinh Hề, Hồ Ngạnh và Ấm Hổ, ông đã được các thầy chỉ dạy cho chiêu luyện tứ pháp bằng mấy chục cái… mô hình trống uốn bằng vành tre treo nơi góc vườn. 

Thầy dạy: Môn luyện võ bằng trống ngày xưa coi những chiếc trống quanh mình là đối thủ, khi xoay trở, thủ, công phải vận dụng linh hoạt tứ pháp gồm: thân pháp, thủ pháp, bộ pháp và nhãn pháp, cùng phương châm “túc bất ly địa, thủ bất ly thân”. 

Khi trò luyện võ, người thầy chỉ cần lắng nghe tiếng trống là lượng được võ công của người học. Cách luyện võ này được coi là đặc dị, nhưng không kém phần vi diệu bởi công năng tuyệt vời của nó. Khi nhà Tây Sơn cùng môn phái võ lui vào bóng tối, việc luyện võ bằng trống cũng phải rút bước âm thầm để bảo toàn cho môn phái, bằng cách sử dụng những vành tre không phát ra tiếng động.

Khi được nhiều thế hệ nghệ nhân tham gia biểu diễn và bồi đắp, sáng tạo thêm, khúc nhạc lễ cổ truyền đã phát triển lên một tầm cao mới. Bài nhạc lễ ba hồi chín đoạn xưa, chỉ có một trống cùng dàn khí nhạc, nay được phối âm cho 12 trống và chia thành năm khúc thức, đặt tên theo nội dung tiết tấu từng phần gồm: tập binh, hành quân, xung trận, phá thànhkhải hoàn

Bản nhạc mang kết cấu như một vở nhạc kịch, mô tả không khí chiến trận với sự kết hợp khéo léo giữa bộ hơi và bộ gõ, tạo nên sự đa tầng, đa dạng trong phối âm, đưa nội dung thể hiện ngày càng đến gần với sự hoàn mỹ. Từ một bản nhạc tế chỉ tấu lên mỗi dịp vọng linh xưa, ngày nay bài Đả thập nhị cổ đã được nhiều thế hệ tham gia sáng tạo, biến thể thành một tác phẩm mang dáng dấp sử thi, như một “bản anh hùng ca”.

Với cách thức biểu diễn hòa quyện giữa chất võ và chất hội, bài nhạc đem đến cho người xem những cảm thức đặc biệt và mới lạ. Hiện nay bài nhạc mang nhiều tên gọi: Trống trận Quang Trung, Bài 12 trống, hay đơn giản chỉ gọi là bài Nhạc võ.

Ở Bảo tàng Quang Trung, nghệ nhân Nguyễn Thị Thuận là người biểu diễn thành công nhất bản nhạc trống mang hồn chiến trận. Bà không phải là võ sư, cũng không phải là cháu chín đời của người đánh trống trận Quang Trung ngày xưa như người ta đồn thổi mà chỉ là một nông dân làng Kiên Mỹ, con gái của người chơi nhạc lễ ở Đền Tây Sơn Tam Kiệt trước kia. 

Năm mươi năm trước, khi không gian tế lễ còn là chốn cấm kỵ với đàn bà con gái, cha bà vì không có con trai nối dõi nên đã cùng người bạn trong ban nhạc lễ truyền nghề cho đứa con gái út mới lên sáu tuổi. Ông đã không ngại ngần khi đặt vào tay cô con gái bé nhỏ đôi dùi, với sứ mệnh làm người lưu giữ ký ức hào hùng của quê hương qua tiếng trống. 

Khi tuổi đã cao, bà Thuận gắng truyền nghề cho hai nữ võ sinh trẻ trong Đội diễn võ Bảo tàng Quang Trung. Một trong hai thiếu nữ ấy là con gái bà. Cũng thật hay, cái nghề này thời trước chỉ dành cho nam giới, nay lại “vượng” theo cách… mẹ truyền con nối. Âu cũng là chuyện bình thường ở đất võ, nơi gái cũng như trai thông thạo từng đường roi, nét thảo.

Đất võ trời văn
Tài liệu tham khảo

Nhạc võ - võ nhạc Tây Sơn, tác giả Phương Lan, báo Bình Định Online.

Một số đặc trưng cơ bản của võ cổ truyền Bình Định, theo Bước đầu nghiên cứu nguồn gốc, đặc trưng võ cổ truyền Bình Định, báo Bình Định Online.

Những người đàn bà múa roi đi quyền nổi danh đất võ, tác giả Phạm Viên - An Yên - Nguyễn Gia, VTC News

Chia sẻ câu chuyện này
Share